Trong lời tựa của Trường Bộ Kinh tập I do H.T. Thích
Minh Châu phiên dịch vào năm 1973 có đoạn viết “Viện Đại Học Vạn Hạnh
dạy cả hai hệ thống Nam Tông và Bắc Tông với hy vọng đi đến một sự dung
hòa thống nhất thật sự giữa hai tông phái căn bản của đạo Phật. Và bước
đầu đi đến sự thông cảm là sự hiểu biết kinh điển lẫn nhau.” Sự ưu tư
của Hòa thượng cũng chính là sự trăn trở của nhiều Phật tử về sự thống
nhất của Phật Pháp.
Qủa thật
vậy, ở các xứ Phật giáo trên thế giới và nhất là ở Việt Nam trong qúa
khứ cũng như hiện tại đã và đang có những thành kiến hoặc thậm chí có
những chỉ trích lẫn nhau giữa những người cùng là đệ tử của Phật. Nhưng
giáo lý của hai truyền thống lớn của Phật giáo nói gì?
Góp phần vào câu
trả lời, trước tiên, một pháp quan trọng nếu không nói là then chốt mà
ta có thể chọn để xem xét là Niết bàn (Pali: Nibbàna; Sanskrit:
Nirvànïa) hay là cứu cánh của tu tập Phật giáo. Thế nhưng, Niết bàn như
thế nào? và làm sao để chứng đạt được cứu cánh âý?
Đức Phật, sau khi
thành đạo, đã chuyển vận bánh xe Pháp với bài thuyết giảng đầu tiên tại
Lộc uyển, đó là Tứ đế. Trong bài pháp này, ngài chỉ ra có bốn sự thật :
khổ, nguyên nhân của khổ là ái, khổ diệt khi ái diệt và con đường đưa
đến khổ diệt là bát thánh đạo với chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Sự
thật thứ ba là khổ diệt cũng được gọi là Niết bàn. Niết bàn là một Thực
tại Tuyệt đối không thể nhận biết được bằng thức suy lường phân biệt
thông thường và nếu diễn đạt bằng ngôn ngữ thì chỉ với lối phủ định.
Trong Tăng Chi Bộ Kinh của Phật giáo Nguyên thủy, Đức Phật tuyên bố :
“Tại chỗ nào,
không bị sanh, không bị gìa, không bị chết, không có từ bỏ (đời này),
không có sanh khởi (đời khác), không có thể đi đến để thấy, để biết, để
đạt đến chỗ tận cùng của thế giới.”
Trong Kinh Pháp
Hoa của Đại thừa Phật giáo, tướng Niết bàn được diễn tả là Không
(sùùnyatà) :
“Đức Như Lai biết
pháp một tướng một vị ấy, nghĩa là : Tướng giải thoát, tướng xa lìa,
tướng diệt, tướng rốt ráo Niết bàn thường tịch diệt, trọn về nơi Không.”
Theo Long Thọ
(Nàgàrjuna), người hệ thống lại toàn bộ giáo lý Đại thừa đã có mặt trước
và cùng thời với ngài, ở ngay trang đầu của tác phẩm nổi tiếng của ngài
là Trung Luận (Màdhyamaka-sùàstra), Không được trình bày đầy đủ hơn với
tám phủ định là : không sinh – không diệt, không thường – không đoạn,
không một – không khác, không đến – không đi. Thế nhưng, Không ở đây
không phải là không ngơ của lông rùa, sừng thỏ. Không chỉ cho cái không
thể nắm bắt được vì nó không có thuộc tính, không có hình tướng, không
có bất kỳ mối liên hệ nào, hoàn toàn cách ly, và siêu việt lên mọi phạm
trù tư tưởng. Vì thế, nó là bất khả đắc. Niết bàn là Không như Kinh Đại
Bát Nhã của Đại thừa Phật giáo giải thích:
“Tánh Không của
thưc tại tối hậu là gì ? ‘Thực tại Tối hậu’ có nghĩa là Niết bàn. Và
Niết bàn đó là không Niết bàn, vì sự không thường không đọan của nó. Tự
tánh nó là như vậy.”
Trong chương bảy
của kinh Pháp Hoa – Hóa thành dụ – hai loại Niết bàn của Thanh văn và
Duyên giác (được minh họa bằng hình ảnh xuất hiện cái thành phố nghỉ
ngơi ở dọc đường) là không thật, chúng chỉ là những phương tiện thiện
xảo của Đức Phật nhằm đáp ứng phù hợp tâm lý, trình độ của những chúng
sinh còn thấp kém và họ không thể hiểu được trực tiếp những lời dạy tối
hậu của Đức Phật :
“Nếu như chúng
sanh chỉ nghe một Phật thừa thời chẳng muốn thấy Phật, chẳng muốn gần
gũi, mà nghĩ thế này : ‘Đạo Phật dài xa lâu ngày chịu cần khổ mới có thể
đặng thành.’ Phật biết tâm chúng đó khiếp nhược hạ liệt dùng sức phương
tiện mà ở giữa đường vì để nghỉ ngơi nên nói hai món Niết bàn.”
Thế nhưng kinh
Pháp Hoa lại không chỉ ra cái Niết bàn thật. Đây là dụngï ý của kinh.
Đức Phật dạy :
mục đích của sự tu tập chỉ có một, đó là sự giải thóat hay còn gọi là
Niết bàn, Cực lạc, v.v… Trong Sư Tử Hống Tiểu Kinh, để chứng tỏ có sự
khác biệt chớ không phải giống nhau như ngoại đạo quan niệm về chủ
trương giáo lý giữa hai bên, Đức Phật dạy các đệ tử cách cật vấn lại
ngoại đạo là cứu cánh này là một hay nhiều ? Câu trả lời đúng đắn là cứu
cánh chỉ có một, đó là sự giải thoát. Và ở Pháp Hoa, Đức Phật cũng dạy:
“Ta là đấng Thế
Tôn
Không có ai bằng
được
Muốn an ổn chúng
sanh
Nên hiện ra trong
đời
Vì các đại chúng
nói
Pháp cam lồ trong
sạch
Pháp đó thuần một
vị
Giải thoát Niết
bàn thôi.”
Để chứng đạt được
mục đích giải thoát đó, phải làm thế nào ? Câu trả lời là không được
chấp thủ bất kỳ một sự vật gì ở đời ngay cả Niết bàn.
Trong kinh Căn
Bản Pháp Môn của Phật giáo Nguyên thủy Đức Phật nói có bốn hạng người ở
đời:
(1) Hạng vô
văn phàm phu. Hạng người này không hiểu, không thuần thục, không tu tập
pháp của các bậc thánh, bậc chân nhân. Do vậy, họ chấp thủ 24 pháp từ
địa đại đến Niết bàn. Họ tưởng tri (sanõjànàti), nghĩ đến (tự ngã) đối
chiếu với tất cả pháp, nghĩ đến tự ngã như là tất cả pháp, nghĩ rằng tất
cả pháp là của ta, hân hoan trong tất cả pháp ấy. Vì cớ sao? vì hạng
người này không liễu tri (parijànàti) tất cả pháp.
(2) Hạng
tỷ kheo hữu học. Tâm hạng người này chưa thành tựu, đang cần cầu sự an
tịnh đối với các triền ách. Họ thắng tri (abhijànàti) tất cả pháp, chớ
nghĩ đến tất cả pháp, chớ nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với tất cả pháp,
chớ nghĩ đến (tự ngã) như là tất cả pháp, chớ nghĩ đến tất cả pháp là
của ta, chớ hân hoan trong tất cả pháp ấy. Vì sao vậy ? vì hạng người
này có thể liễu tri tất cả pháp.
(3) Hạng
tỷ kheo là bậc A la hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các
việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã
tận trừ hữu kiết sữ, được chánh trí giải thoát. Những vị này thắng tri
tất cả pháp, không nghĩ đến tất cả pháp, không nghĩ đến (tự ngã) đối
chiếu tất cả pháp, không có nghĩ đến (tự ngã) như là tất cả pháp, không
có nghĩ đến tất cả pháp là của ta, không hân hoan trong tất cả pháp ấy.
Vì sao vậy ? vì hạng người này liễu tri tất cả pháp. Hạng người này trừ
được tham, sân, si vì tự ngã của họ không còn tham, sân và si.
(4) Như lai là bậc A la
hán, chánh đẳng chánh giác, thắng tri tất cả pháp, không nghĩ đến tất
cả pháp, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu tất cả pháp, không có nghĩ
đến (tự ngã) như là tất cả pháp, không có nghĩ đến tất cả pháp là của
ta, không hân hoan trong tất cả pháp ấy. Vì sao vậy ? vì Như lai đã liễu
tri tất cả pháp, vì Như lai biết rằng dục hỉ (nandi) là căn bản của đau
khổ, từ hữu sanh khởi lên và già chết đến với loài hữu tình. Do vậy,
Như lai với sự diệt trừ toàn diệt các hỉ tham (nandiràga), với sự ly
tham, đoạn diệt, xã ly, từ bỏ các ái, chứng được vô thượng chánh đẳng
chánh giác.
Qua bốn hạng
người trên chỉ có hạng vô văn phàm phu là chấp thủ, chấp ngã đối với các
pháp từ địa đại đến Niết bàn. Còn lại, ngay cả hạng hữu học đã chớ có
chấp thủ, chấp ngã đối với các pháp ấy huống là những bậc cao minh hơn.
Cũng trong Sư Tử
Hống Tiểu Kinh, Đức Phật nói một người phải thành tựu tám pháp mới có
thể đạt được cứu cánh giải thoát, đó là: không tham, không sân, không
si, không ái, không chấp thủ, có trí tuệ, không thuận ứng không nghịch
ứng, không ưa thích hý luận vọng tưởng.
Trong Kim Cang
của Đại thừa Phật giáo một câu kinh huyền nhiệm đã khiến ngài Lục tổ Huệ
Năng ở Trung Quốc và Sơ tổ của Thiền phái Trúc Lâm là Trần Nhân Tông ở
Việt nam chứng ngộ, đó là “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.” Đây cũng là
sự không chấp thủ hay không bám víu, nương tựa vào bất kỳ sự vật gì ở
đời.
Niết bàn được
ngài Long Thọ quan niệm như sau :
“Bhàvastàvat na
Nirvànïam jaràmaranïalaksïanïam
Prasajyetàsti
bhàvo hi na jaràmaranïam vinà.”
(Niết bàn hay
Thực tại Tuyệt đối không thể gọi là một hữu (bhàva) hay một thực thể
khẳng định vì trong trường hợp đó nó sẽ chịu sự chi phối của sinh, gìa
và chết; không có một hiện hữu kinh nghiệm nào lại thoát khỏi gìa và
chết. Nếu nó không thể là hữu, thì nói gì là phi hữu (abhàva), vì phi
hữu chỉ là một khái niệm tương đối dựa trên khái niệm hữu.)
Khi những khái
niệm hữu và phi hữu không thể ứng dụng được cho cái Tuyệt đối thì việc
ứng dụng bất kỳ một khái niệm nào khác lên nó đều không được vì tất cả
những khái niệm khác đó dựa trên hai khái niệm đầu. Nói gọn, cái Tuyệt
đối siêu việt tư tưởng, và vì nó siêu việt tư tưởng nó là cái không thể
diễn tả được. Ngài Long Thọ nói tiếp :
“Nivrïttamabhidhàtavyam
nirvrïtte cittagocare
Anutpannàniruddhà
hi Nirvànïamiva dharmatà.”
(Cái mà không thể
là đối tượng của tư tưởng thì làm sao có thể là đối tượng của ngôn ngữ.
Cái Tuyệt đối thực tướng của mọi tồn tại là không sinh, không diệt.)
Trong kinh Pháp
Hoa, Đức phật không chỉ ra cái Niết bàn thật mà chỉ nói những bậc Thanh
văn, Duyên giác hãy từ bỏ những Niết bàn của mình đi. Và điều này cho
thấy một khi từ bỏ, không còn chấp thủ cái Niết bàn gỉa danh của mình
nữa vì thấy thực tướng của các pháp là Không, tịch diệt, lúc đó Niết bàn
thật mới hiện ra.
“Ta vì bày phương
tiện
Nói các đạo dứt
khổ
Chỉ cho đó Niết
bàn,
Ta dầu nói Niết
bàn,
Cũng chẳng phải
thiệt diệt,
Các pháp từ bổn
lai
Tướng thường tự
vắng lặng.”
Để kết luận cho
vấn đề : Thật có một sự mâu thuẩn hay ngược lại là có một sự thống nhất
căn bản giữa hai hệ thống giáo lý lớn của Phật giáo là Nguyên Thủy (được
viết bằng chữ Pali) và Đại Thừa (được viết bằng chữ Sanskrit hay bằng
dịch ngữ Hán) ? Câu trả lời xin dành cho qúy độc giả .
-----------------------------------
Kinh bộ tăng
chi, Tập I, HT. Thích Minh Châu dịch, Trường CCPHVNCS II, 1988, tr. 408.
Thích Thanh Từ, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải, Thành hội Phật giáo
Tp. HCM, 1993, tr. 265.
“What is the emptiness of ultimate reality? ‘Ultimate reality’ means
Nirvànïa is empty of Nirvànïa, on account of its being neither unmoved
nor destroyed.” Xem The Large Sutra on Perfect Wisdom, E. Conze dịch,
Delhi, 1990, tr. 145.
Thích Thanh Từ, Opcit., tr. 348-349.
Tiếng Pali là Cùlasìhanàda trong Trung Bộ Kinh (Majjhimanikàya), tập I,
Thích Minh Châu dịch.
Thích Thanh Từ, Opcit., tr. 276.
Tiếng Pali là Mùlapariyàya trong Trung Bộ Kinh (Majjhimanikàya), tập I,
HT. Thích Minh Châu dịch.
24 pháp : địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, chúng sanh, chư thiên,
tạo hóa (Marà), Phạm Thiên, Quang âm thiên, Biến tịnh thiên, Quảng Qủa
Thiên, Thắng giả (Abhibhu, chúng sanh không có tưởng chỉ cho những vị có
thiền định cao), không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, sở
kiến (điều được thấy), sở văn (điều được nghe), sở tri (điều được biết),
cái đồng nhất, cái sai biệt, tất cả và Niết bàn.
Sự biết các pháp ngang qua kinh nghiệm quá khứ do 6 căn là mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân và ý tiếp xúc với 6 trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc
và pháp.
Sự biết của vị A la hán có khả năng đoạn trừ được các lậu hoặc. Đây là
cái biết triệt để của một vị đã giải thoát.
Sự biết không ngang qua các dục vọng mà qua thiền định. Vị này thấy
tính chất của các pháp là vô thường, khổ, vô ngã.
Tránh hai cực đoan, đó là trung đạo.
Ứng vào chỗ không bám víu mà sinh cái tâm.
Nàgàrjuna, Màdhyamkakàrikà, 25, 4.
Ibid., 18, 7.
Thích Thanh Từ, Opcit., tr. 109.
Kinh bộ tăng
chi, Tập I, HT. Thích Minh Châu dịch, Trường CCPHVNCS II, 1988, tr. 408.
Thích Thanh Từ, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Giải, Thành hội Phật giáo
Tp. HCM, 1993, tr. 265.
“What is the emptiness of ultimate reality? ‘Ultimate reality’ means
Nirvànïa is empty of Nirvànïa, on account of its being neither unmoved
nor destroyed.” Xem The Large Sutra on Perfect Wisdom, E. Conze dịch,
Delhi, 1990, tr. 145.
Thích Thanh Từ, Opcit., tr. 348-349.
Tiếng Pali là Cùlasìhanàda trong Trung Bộ Kinh (Majjhimanikàya), tập I,
Thích Minh Châu dịch.
Thích Thanh Từ, Opcit., tr. 276.
Tiếng Pali là Mùlapariyàya trong Trung Bộ Kinh (Majjhimanikàya), tập I,
HT. Thích Minh Châu dịch.
24 pháp : địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, chúng sanh, chư thiên,
tạo hóa (Marà), Phạm Thiên, Quang âm thiên, Biến tịnh thiên, Quảng Qủa
Thiên, Thắng giả (Abhibhu, chúng sanh không có tưởng chỉ cho những vị có
thiền định cao), không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, sở
kiến (điều được thấy), sở văn (điều được nghe), sở tri (điều được biết),
cái đồng nhất, cái sai biệt, tất cả và Niết bàn.
Sự biết các pháp ngang qua kinh nghiệm quá khứ do 6 căn là mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân và ý tiếp xúc với 6 trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc
và pháp.
Sự biết của vị A la hán có khả năng đoạn trừ được các lậu hoặc. Đây là
cái biết triệt để của một vị đã giải thoát.
Sự biết không ngang qua các dục vọng mà qua thiền định. Vị này thấy tính
chất của các pháp là vô thường, khổ, vô ngã.
Tránh hai cực đoan, đó là trung đạo.
Ứng vào chỗ không bám víu mà sinh cái tâm.
Nàgàrjuna, Màdhyamkakàrikà, 25, 4.
Ibid., 18, 7.
Thích Thanh Từ, Opcit., tr. 109.