Bất Tử: Sự
Ðoạn Tận Các Nhân Sanh Tử Luân Hồi
Kinh Bất Tử
Phổ Nguyệt
Chúng ta sống trong không gian
vô cùng và thời gian vô tận tất phải có nhận
thức về thế gian. Thế gian là một thế giới hiện
tượng.lưu chuyển mãi không ngừng nghỉ từng
sát-na sanh diệt bất thường như vậy.
Không gian luôn biến đổi. Chúng ta cũng chứng
kiến được ruộng dâu biến thành bể cả và ngược
lại. Thời gian huyễn hóa làm cho sự vật trở
thành sanh trụ họai diệt; con người thì sanh già
bịnh chết. Chúng ta nhận thức đúng đắn và chơn
thật rằng thế gian quả là vô thường.Thế giới
hiện tượng vô thường mà sự vật hiện hữu do nhân
duyên kết hợp, do đó chúng không có lúc nào tự
mình độc lập tồn tại (sanh diệt). Tâm con người
cũng vậy.Theo Ðaị Thừa Khởi Tín Luận,“Sinh diệt
của Tâm là do Như lai tạng mà có tâm sinh
diệt.Tâm sinh diệt ấy hóa hợp bất diệt và sinh
diệt một cách không phải đồng nhất cũng không
phải biệt lập, và gọi là a lại da thức. A lại da
thức có hai mặt, bao gồm và phát sinh tất cả các
pháp; hai mặt ấy là tuệ giác và bất giác” Từ đó
chúng ta biết được có sanh có diệt là hiện tượng
vô thường đổi thay, và không sanh không diệt là
sự thường hằng bất biến. Cho nên trong cái lưu
chuyển biến đổi có cái thường hằng bất biến. Do
đó, Phật đã dạy pháp từ nhân sanh diệt trở về
cái bất sanh bất tử, như Kinh Bất Tử sau đây.
Tôi
nghe như vầy:
Một
thời, Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng
Thắng, vườn Cấp cô độc.
Bấy
giờ Đức Thế Tôn nói rằng:
“Này
A-nan, người giữ giới không nên nghĩ
rằng: ‘Mong sao tôi không có sự hối
hận’. Này A-nan, bởi vì
pháp tánh vốn vậy ai giữ giới, người
ấy được sự không hối hận.
“Này
A-nan, người đã được sự không hối hận, không nên
nghĩ rằng: ‘Mong sao tôi được hân
hoan. Này A-nan, bởi vì
pháp tánh vốn như vậy, ai không hối hận người ấy
được hân hoan.
“Này
A-nan, người đã được sự hân hoan không nên nghĩ
rằng: ‘Mong sao tôi được hỷ’. Này A-nan, bởi vì
pháp tánh vốn vậy, ai có hân hoan,
người ấy được hỷ.
“Này
A-nan, người đã có hỷ không nên nghĩ rằng: ‘Mong
sao tôi được tĩnh chỉ’. Này A-nan, bởi vì pháp
tánh vốn như vậy, ai có hỷ,
người ấy được tĩnh chỉ.
“Này
A-nan, người đã được tĩnh chỉ không nên nghĩ
rằng: ‘Mong sao tôi có lạc’. Này A-nan, bởi vì
pháp tánh vốn vậy, ai đã có tĩnh chỉ,
người ấy được cảm thọ lạc.
“Này
A-nan, người đã có lạc không nên nghĩ rằng:
‘Mong sao tôi có định’. Này A-nan, bởi vì pháp
tánh vốn vậy, ai có lạc,
người ấy có định.
“Này
A-nan, người đã có định không nên nghĩ rằng:
‘Mong sao tôi thấy như thật, biết như chân’. Này
A-nan, bởi vì pháp tánh vốn vậy, ai có
định, người ấy thấy như
thật, biết như chân.
“Này
A-nan, người thấy như thật, biết như chân không
nên nghĩ rằng: ‘Mong sao tôi có sự yếm ly’. Này
A-nan, bởi vì pháp tánh vốn như vậy, ai
thấy như thật, biết như chân,
người ấy có sự yếm ly.
“Này
A-nan, người đã có sự yếm ly không nên nghĩ rằng:
‘Mong sao tôi được vô dục’. Này A-nan, bởi vì
pháp tánh vốn như vậy, ai có sự yếm ly
người ấy được vô dục.
“Này
A-nan, người đã vô dục không nên nghĩ rằng:
‘Mong sao tôi được giải thoát’. Này A-nan, bởi
vì pháp tánh vốn như vậy, ai đã vô
dục người ấy được
giải thoát hết thảy dâm, nộ,
si.
“Này
A-nan, đấy là nhân trì giới mà được
không hối hận, nhân không hối hận mà được hân
hoan, nhân hân hoan mà được hỷ, nhân hỷ mà được
chỉ, nhân chỉ mà được lạc, nhân lạc mà được định.
“Này
A-nan, Đa văn Thánh đệ tử nhân định mà
có tri kiến như thật, nhân có tri kiến như thật
mà có yếm ly, nhân có yếm ly mà được vô dục,
nhân vô dục mà được giải thoát, nhân giải thoát
mà có giải thoát tri kiến, biết đúng
như thật rằng: ‘Sự sanh đã dứt, phạm
hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không
còn tái sanh nữa’.
“Này
A-nan, đó chính là các pháp hỗ trợ lẫn nhau, làm
nhân cho nhau. Như vậy, giới này đưa đến chỗ cao
tột, tức là đưa từ bờ này đến tận bờ kia.
Phật
thuyết như vậy. Tôn giả A-nan và các Tỳ-kheo
sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.
Lý giải kinh:
Pháp tánh là
gì? Theo TÐPHVA, “Pháp Tánh:
Tathagata-garbha or Dharmata (skt)—Chơn tánh
tuyệt đối của vạn hữu là bất biến, bất chuyển và
vượt ra ngoài mọi khái niệm phân biệt.” Pháp
tánh có thể nói là tự tính không của sự vật. Nó
là hư không hay pháp không chấp thủ, có đặc điểm
không sanh không diệt, không tăng không giảm và
không sạch không nhơ. Khi ai giữ giới không nên
nghĩ “Mong sao tôi không có sự hối hận” thì cảm
giác trong tôi không có ghi lại trong tâm, vì lẻ
sự không hối hận không dính mắc thì tâm trống
rỗng như hư không ,phù hợp với pháp tánh. Từ
nguyên nhân đầu tiên muốn không hối hận mà sanh
khởi. Thật ra khi không nghĩ “Mong sao tôi không
có sự hối hận” là đã có cảm giác không hối hận,
là sự phủ định hay đối nghịch sự hối hận là được
hân hoan trong lòng. Không suy nghĩ đến sự hân
hoan, vì sự hân hoan là có sự hỷ. Không nghĩ đến
hỷ thì phù hợp với pháp tánh, vì ai có hỷ thì
được tĩnh chỉ. Khi không nghĩ có tĩnh chỉ, đó là
pháp tánh, vì có tĩnh chỉ là được thọ lạc. Khi
không có lạc là pháp không, vì có lạc là được
định. Có định, đừng nghĩ tôi mong thấy như chân
biết như thật, vì ai được thấy biết như chân như
thật thì được sự yếm ly. Ai có sự yểm ly, thì
được vô dục. Có sự vô dục, đừng nghĩ mong có
giải thoát, vì đã vô dục là được giải thoát hết
thảy dâm, nộ, si. Khi có nhân trì giới mà được
không hối hận và từ đó nhân pháp trước có quả
pháp sau và quả pháp sau tiếp làm nhân pháp sau
nữa, và cứ thế liên tiếp mãi theo các pháp như
hân hoan, hỷ, lạc, định, thấy biết như chân như
thật, yểm ly, vô dục, giải thoát, giải thoát tri
kiến. Như vậy biết đúng như thật rằng:
‘Sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã vững,
việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh
nữa’.Không sanh thì không diệt đó là
sự bất tử. Sự bất tử do
nhân bất sanh, được tu tập từ
tướng không của sự vật sanh diệt trở về tánh
không của pháp tánh không sanh không tử..
Bất tử là trạng thái bất sanh
bất diệt, đó là một thực tướng trong dòng lưu
chuyển của trạng thái sanh diệt hay thay đổi ở
thế giới hiện tượng vô thường. Cái bất sanh bất
tử, bất biến có thể gọi là chân trí hay chân như
pháp tính.Pháp tánh là chơn tánh tuyệt đối của
vạn hữu. Theo Chân Như Quan của Phật Giáo, sự
thực hiện giáo điều này sẽ trở thành tiêu chuẩn
của chân tri kiến của Phật Giáo. Tuy Phật nói là
chân trí, nhưng thật ra nó chỉ là sự phù hợp với
Chân-như Pháp-tính. Do đó, cái Chân-như quan cố
hữu của Phật Giáo Nguyên thủy tuy nói lấy chân
tướng của các pháp làm mục tiêu, nhưng tóm lại
thì chỉ đứng trên cơ sở mê, ngộ của nhân sinh
quan tôn giáo để thấu suốt chân tướng của mê,
ngộ mà thôi.
Phật nói: "Này các Tỷ
Khưu! Tứ Ðế này là Chân-như (tathani), là tính
không hư vọng (avitathani), tính không biến dị (anannathani)".
Xem câu này ta đủ rõ cái chủ ý chân như pháp
tính ở trên. Lại tiến thêm một bậc nữa mà khảo
sát, cái nhân sinh quan lấy mê, ngộ làm tiêu
chuẩn này vẫn coi sự thật là sự thật mà quan sát
vũ trụ nhân sinh; có nắm được cái chân tướng của
sự thật đó mới có thể kiến lập một cách xác thực..
(Kimura Taiken)
Khi dòng tâm thức từng sát-na
sanh diệt theo thời gian làm cho tâm chứa nhiều
tri kiến hổn tạp, tạo lớp màn vô minh, vốn gốc
sanh tử luân hồi. Giải thoát những tri kiến tâm
trở nên trong sáng phù hợp với chân như pháp
tánh.Phương pháp mà Phật dạy từ mê vọng (bất
giác) trở lại (giác) pháp tánh trong sáng như hư
không. Giải thóat là xa lìa mọi sai lầm của các
pháp của tâm thức, không bị xúc thọ ái ràng
buộc."trong sự giải thoát là sự hiểu biết." Thật
vậy, sự hiểu biết sáng suốt, là tuệ tri, là cái
biết vô thời không, trong sát na hiện tiền. Khi
hành giả tuệ tri (biết của Trí) về lục căn, lục
trần, hay lục thức, tâm thức và không có thời
gian, thì xúc, thọ, ái không có kẻ hở để khởi
sanh. Như hành giả quán, " tuệ tri ' Sanh đã tận,
Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm,
không còn trở lui trạng thái này nữa" thì dòng
tâm thức ngừng chảy (vô thời không), tức là
đoạn diệt các nhân sanh diệt, không suy nghĩ
thêm quan niệm , hay tư tưởng gì về tâm thức đó.
Khi xúc, thọ, ái không khởi sanh trong tâm, thì
đoạn được thân kiến cũng như chúng không ràng
buộc và gây ba độc, thì lúc ấy được giải thoát
khỏi các lậu hoặc không có chấp thủ.
Suy nghĩ tức tưởng
tri là biết do tưởng thức hoặc suy nghĩ lại
những ý tưởng so đo của tự ngã, tưởng tượng
những đối tượng không thật có do tiền ngũ căn
trực tiếp nhận thức, nên sự nhận thức chấp trước,
lệch lạc và không chơn thật của tri kiến phàm
phu, chúng sanh thường tình do sở tri và tự ngã.
Trong kinh Sáu Xứ, Phật thuyết giảng:
Những vị hữu học và bậc giác
ngộ dùng chánh trí hay chơn tri để tuệ
tri tri kiến thể nhập pháp tánh. Không
nên nghĩ tức tuệ tri hay biết
rõ ràng (Thấy biết như chơn lục căn, chơn lục
trần, chơn lục thức). Cho nên biết mong
mỏi không hối hận, mong hỷ,tĩnh chỉ, lạc,
định,thấy biết như chơn như thật, yễm ly, vô dục,
giải thoát dâm, nộ, si thí tất cả tri kiến đó đã
thể nhập vào pháp tánh rồi, tâm thức
không còn vẩn đục, không còn sanh khởi nữa, tức
trạng thái bất sanh bất diệt hay sự bất tử hiển
hiện.
Dùng chân trí hay chánh trí (tuệ
giác) để quán sát tức dùng tri thức nguyên thủy
là tướng không của vạn hữu hòa nhập với
pháp tánh hay tánh không như hư không vô
tận. Phật dạy từ cái sanh diệt như hối hận, hỷ,
tĩnh chỉ, thọ lạc, định, thấy biết như chân, yếm
ly, vô dục, giải thoát tất cả dâm, nộ, si
v.v..xoay lại tướng không hay tự t1nh không của
chúng để rồi hòa nhập tánh không của chân như
pháp tánh. Như trong kinh Phật dạy phương pháp
thực hành giải thoát tri kiến theo thời thiền
theo ba cách như sau:
- Tuệ tri (biết) Mong sao tôi
không có sự hối hận;
- Tuệ tri mong sao tôi được
hân hoan;
- Tuệ tri mong sao tôi được
hỷ;
- Tuệ tri mong sao tôi được
tĩnh chỉ;
- Tuệ tri mong sao tôi có lạc;
- Tuệ tri mong sao tôi có
định;
- Tuệ tri mong sao tôi tthấy
như thật biết như chân;
- Tuệ tri mong sao tôi được
vô dục;
- Tuệ tri mong sao tôi được
giải thoát tất cả dâm, nộ, si;
- Tuệ tri mong sao tôi được
tận diệt các nhân sanh diệt;
- Tuệ tri sự sanh đã
dứt, phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm
xong, không còn tái sanh nữa.
“Cảm
giác vô,
“Cảm
giác ra.”
Cảm giác Vô Ra, vì khi nhận
dạng cảm giác (bóng dáng) của một đối tượng
mà chưa được nhận thức (chưa được đặt
tên hay đọc tên) tên đối tượng là chỉ thể nhập
nơi tịch tĩnh y nhiên, tức là cảm giác chỗ đối
tượng chưa thành hình, chưa có tên (giả danh),
đó cũng gọi là tri thức nguyên thủy hay tuệ giác
của chân trí. Cảm nhận luồng hơi vô luồng
hơi ra vô mà thôi. Khi không có mặt đối tượng
thì năng s
song vong.
Kinh bất tử
là pháp học trì giới rèn luyện phạm hạnh, đồng
thời Phật dạy tu tập giải thoát tri kiến để vượt
dòng tâm thức luôn sanh diệt. Giải thoát tri
kiến có nghĩa là khôi phục lại cái thực tính của
tri kiến, tức là sự hiểu biết chân thật trở về
chân như pháp tánh (tâm an tịnh)..Vượt
thoát khỏi đối tượng và biết tìm đến tự tính của
nó là đường về chân nguyên. Lột xác tri kiến giả
lập để thể hiện tri thức thực sự tức là Tri thức
đúng hay hiểu biết chân thật tức là đoạn tận
các nhân sanh diệt (an tâm). Quán sát
tướng không của vạn hữu hay tự ngã không của tâm
hòa nhập tánh không của chân như pháp tánh,
cõi thường hằng bất biến, đó là sự bất
sanh bất tử .
Từ đó chúng ta
mới có thể mở ra tuệ giác vượt khỏi thời gian và
không gian đến bờ Giác Ngộ Giải Thoát để Sống
Đời Tự DoTự Tại, trong cõi vô cùng hằng hữu của
trạng thái bất tử.
Tham khảo
Chân Như Quan của Phật Giáo.
Tác giả: Kimura Taiken Việt dịch:
Thích Quảng Độ, trích trong website Quảng Ðức::
http://www.quangduc.com.
43. Kinh Bất Tử. Số 26-Kinh
Trung A-Hàm. Do Thích Tuệ Sỹ Việt d ch từ Hán
văn, trích trong website Quảng Ðức..
146.Kinh Sáu Xứ. Kinh Trung Bộ.
HT. Thích Minh Châu Việt dich, đăng trên website
Quảng Ðức.
TÐPGVA. (Tự Ðiển Phật Giáo
Việt Anh). Thiện Phúc trong website Quảng Ðức.