Đức Phật đọ người ghánh phân
Thành Xá Vệ có một người Chiên đà la, sống bằng nghề đổ phân. Một hôm, Phật gặp giữa đường bèn kêu lại. Người đổ phân thưa rằng: “Con là người gánh phân ô uế không sạch, con không dám lại gần Ngài”. Đức Phật nói: “Ta nay muốn độ cho ngươi”. Rồi Phật tự thân dắt người gánh phân xuống sông Hằng tắm rửa sạch sẽ và đưa về tịnh xá Kỳ Hoàn cho xuất gia làm vị Sa môn.
Người gánh phân chuyên tâm tu hành, rất tinh tấn cần khổ, nên chưa đầy một tuần đã chứng quả A La Hán, thần thông tự tại. Bấy giờ, vua trong nước nghe tin Phật độ cho người Chiên đà la, lấy làm bất mãn và cho rằng làm như vậy là hạ thấp giá trị của Sa môn và làm khó khăn sự kính lễ của các hàng vua chúa, nên liền đến tịnh xá yết kiến Phật. Khi đến chỗ Phật, thấy một vị Sa môn uy nghi đức hạnh, ngồi thiền trên một tấm đá, hiện nhiều thần thông kỳ diệu.
Vua vào lễ Phật bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Vị Sa môn kia danh hiệu là gì, sao lại có nhiều thần thông như vậy?”. Phật bảo: “Đó là người gánh phân, nhờ công hạnh tinh tấn nên chứng được quả A La Hán”. Rồi Phật dùng thí dụ cho vua rõ: “Như ở trong bùn nhơ bẩn, vẫn nở một hoa sen thơm ngát. Vậy Bệ hạ là người có mắt, Bệ hạ có hái lấy hoa kia không?”. Vua đáp: “Đóa hoa tuy mọc trong bùn lầy mà thơm ngát hương quý thì rất nên dùng để tự trang nghiêm. Còn bùn lầy nhơ bẩn kia thì nên quán xem như là trạng thái của bà mẹ, chính tự trong bào thai mà sinh nở đoá hoa công đức”.
Vua lại bạch Phật: “Vị A La Hán trước làm nghề đổ phân, nay công quả tu hành viên mãn, chứng được những quả đức bất khả tư nghì. Con xin nguyện luôn cúng dường những món cần thiết, không dám để thiếu thốn” .
Lời bàn.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thử suy nghĩ về thể tánh bình đẳng trong Phật giáo. Từ khởi nguyên, bước chân du hóa của đức Phật khắp lưu vực sông Hằng. Ngài là một nhà cách mạng vĩ đại đã dám gạt bỏ đi sự phân biệt giai cấp đã có từ lâu đời trong xã hội Ấn Độ. Ngay từ thời cổ đại, con người sống trong lãnh thổ này đã được chia làm bốn giai cấp, là Bà la môn, Sát đế lợi, Phệ xá và Chiên đà la. Một thời, những giai cấp này đã tạo nên sự bất công vô cùng khốc liệt. Nhưng đến khi đuốc tuệ chân lý giải thoát của Thế Tôn bừng tỏa thì tất cả mọi giai cấp đều quy về một mối. Ngài đưa ra một chân lý bất hủ: “Không có giai cấp trong khi máu người cùng đỏ và nước mắt cùng mặn”. Trong thể tánh bình đẳng, Ngài khẳng định ai cũng có Phật tánh và cũng đầy đủ khả năng thành Phật nếu người đó tinh tấn tu hành. “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”.
Bình đẳng tuyệt đối là một đức tính vô cùng cao đẹp mà xưa nay chỉ có đạo Phật mới có mà không có trong bất kỳ một tôn giáo nào hay một hệ thống triết học nào khác.