Ngày cuối tuần, Văn bỗng nổi
hứng rủ tôi đi chùa. Là kẻ giang hồ lãng tử, thích ngao du nơi sơn cùng thủy
tận, nhưng tôi chưa từng thấy hắn bước chân đến những chốn trang nghiêm thờ tự
bao giờ. Văn còn bảo:“Một ngôi chùa ẩn mình bên dòng sông, đậm nét cổ kính u
nhàn, rất phù hợp với người ưa tư duy hoài cổ như cậu”
Dừng chân bên cổng Tam Quan, tôi choáng ngợp
trước cánh rừng nguyên sinh được lưu giữ đâu cả hằng trăm năm rồi. Một ngôi
chùa cổ như bao ngôi chùa, nhưng cảnh sắc ở đây thật khác biệt. Ngôi chánh điện
lọt thỏm giữa rừng cây cổ thụ. Những dãy nhà ngang dọc được trang hoàng tu tạo
mới mẻ mà vẫn không làm mất vẻ cổ kính thâm u lâu đời. Nhà tổ nối liền với nhà
chúng nhà khách theo các lối đi lát gạch tàu có mái che lợp ngói âm dương, hành
lang qua lại treo lủng lẳng những chậu phong lan, mấy hàng dây leo nở hoa tím
vàng rực rỡ. Mặt sân râm mát. Cỏ mọc xanh um. Rãi rác trên thảm cỏ, có vô số đá
tảng với nhiều hình thù quái dị lạ mắt. Chùa thuộc dạng di tích lịch sử. Ngày
thường vắng vẻ. Nhưng nghe nói vài năm trở lại đây, những ngày rằm lớn, trước
cổng chùa tràn ngập người buôn bán hàng rong và cả hàng quán ăn uống. Do danh
tiếng của ngôi chùa cổ nên khách hành hương thích tìm tới chiêm bái. Và cũng
bởi ngay trước mặt chùa có bến đò đưa khách du lịch qua cù lao nổi trên sông.
Nơi ấy người ta cho xây dựng nhiều công trình vui chơi giải trí.
Tôi vừa định bước vào chánh điện thì
Văn kéo tay lại:
- Chúng ta đến chào Sư ông trước đi.
- Sư ông trụ trì chùa à?
- Sư ông là bậc đại lão tôn túc. Là
viện chủ chùa. Người ở riêng tịnh thất yên tu, chuyên tâm dịch kinh viết
sách...
Không hiểu Văn đi chùa từ lúc nào mà
biết rành những từ chuyên môn nhà Phật đến thế. Vừa đi Văn vừa giới thiệu chỗ
này chỗ kia, y như hắn là người ở vùng này vậy. Gian tịnh thất của Sư ông tọa
lạc trên ngọn đồi, hướng mặt ra dòng sông, tách biệt giữa rừng cây dương cao
lớn. Leo chưa hết mấy bực tam cấp, tôi đã nghe mùi hoa lý thơm nồng sóng mũi.
Dòng sông trôi bên dưới, lững lờ xanh biếc, vài con đò nhỏ đưa khách đang rẽ
bến vào bờ.
Sư ông dáng người tầm thước, vẻ mặt
trang nghiêm, phong thái tự tại. Người vừa xả thiền, thấy khách liền bước ra
sân. Văn chấp tay xá chào:
- Chúng con đến vãng cảnh chùa và thăm
Sư ông đây.
Sư ông chắp tay đáp lễ:- Mô Phật. À!
Văn đấy à! Mắt sư lúc này kém lắm rồi… nhìn từ xa cứ ngỡ là ai.
- Nhưng Sư ông vẫn còn minh mẫn, suốt
ngày ngồi thiền dịch kinh viết sách, còn chơi cờ thật khó ai qua được.
Sư ông cười:
- Ậy! Chơi cờ… dịch kinh viết lách cũng
là phương tiện. Mục đích của người tu sĩ là chuyên tâm vào việc tu hành giải
thoát!
-Bạch sư ông! Vậy thì môn chơi cờ là
phương tiện có ý nghĩa nhất đối với con. Nhờ nó mà con biết đến chùa, được sư
ông cảm hóa.
Tôi vẫn đứng yên lặng… lắng nghe. Chừng
như nhớ ra, sư ông quay sang hỏi:- À! Cậu bé này là bạn của Văn phải không?
Tôi chưa kịp thưa thì Văn đã hớt lời:-
Dạ… thằng bạn mà con đã thưa với sư ông hôm trước đó. Là nhà văn kiêm nhà khảo
cổ khảo cứu gì nữa đấy. Hắn thích sưu tầm tìm hiểu mấy ngôi chùa cổ. Sư ông đem
mấy tập văn thơ ra cho hắn chỉnh sửa…
Tôi không ngờ Văn lại đưa tôi vào tình
thế này. Tôi chỉ biết viết lách đôi chút mấy chuyện thế sự đời thường, làm sao
dám chỉnh sửa văn của bậc tu hành đạo thâm uyên bác. Tôi chưa kịp thoái thác
thì sư ông đã vui vẻ nói: - Thật may quá. Sư ông nghe Văn nói nhiều về con. Tập
văn này sư ghi lại công trạng của Tổ sư, người khai sáng ngôi Tổ Đình cách đây
đã hơn hai trăm năm. Sư nhờ con đọc rồi chỉnh văn chỉnh ý…
- Dạ bạch Sư… con thật sự không dám.
Con không am hiểu mấy về sự tích kinh điển nhà Phật…
- Có gì đâu - Văn chen vào- Cậu chỉ là
sửa văn thôi mà. Gieo chút duyên lành đi, rồi sẽ gặt được quả Phật như mình vậy
nè…
Sư ông bước vào trong lấy ra quyển vở
mỏng đưa cho tôi:
- Con cầm lấy rồi về nhà đọc thử… Mà
con có biết chơi cờ không?
Tôi ấp úng: - Dạ thưa không.
Văn nhanh nhẩu:- Vậy cậu lại nằm võng
dưới dàn hoa thiên lý mà đọc sách ngắm hoa. Hoặc là đi xuống dưới chùa khảo sát
phong cảnh địa thế. Còn mình sẽ đánh cờ với sư cụ. Bao giờ tới đây mình cũng
chơi vài ván cờ...
Văn thường có kiểu ra lệnh như thế.
Song tôi chẳng chút phật lòng, chỉ hơi thắc mắc không biết cơ duyên nào đã đưa
Văn đến chùa. Chẳng lẽ vì môn chơi cờ. Văn thuộc loại người đa tài lắm tật. Thi
ca hội họa là sở trường. Giỏi thư pháp còn chơi cờ thì cự phách. Có thể hắn mến
sư ông vì cùng sở thích, hoặc nể phục gặp được bậc uy đức thượng thừa. Không
mấy hứng thú với môn giải trí thời thượng này, tôi cầm bản thảo bước tới giàn
hoa thiên lý. Gió thu hiu hiu thổi. Mùi hương hoa tỏa ngát. Lần giở từng trang
sách, tôi thoảng nghe một làn cảo thơm thâm ý diệu mầu hiện ra…
“… Mặt trời vừa khuất sau rặng cây um
tùm rậm lá, cảnh sắc bên sông nhuốm màu khói lam u tịch. Có người lữ khách vừa
dừng chân ghé lại, ngẩn ngơ nhìn trời nước bao la. Gió chiều miên man thổi.
Sóng nước chập chùng. Không một mái chèo khua động. Không một tiếng vọng từ cõi
bờ xa dội lại. Bóng hoàng hôn che khuất mọi nẻo đường nơi bến cô liêu.
Lữ khách là một thầy tu độ tuổi trung
niên. Thầy vốn người phương bắc, theo đoàn di dân Nam tiến đi tìm vùng đất mới. Rong
ruổi trên đường dịu vợi, chỉ với mớ hành trang nhẹ gánh phiêu bồng. Biết bao
lần vượt thác băng rừng, bao lần đối mặt với hiểm nguy. Xóm làng phố thị đi
qua, nhưng bước chân đời lãng tử chưa muốn dừng lại. Trời đất trải rộng mặc sức
cho lòng người tiêu dao cùng sơn thủy hữu tình.
Leo trở lên bờ dốc thấp, thầy đến ngồi
nghỉ chân trên tảng đá bằng phẳng rồi mở đãy lấy gói lương khô ra dùng bữa. Một
chiếc ghe nhỏ qua dòng sông rộng lúc này là điều bất khả. Đêm nay có lẽ phải
nghỉ lại đây. Đêm cuối tháng bên dòng sông vắng, chỉ có gió trời lồng lộng cùng
một vũ trụ đầy sao.
Trời tối dần. Thầy lần mò xuống bờ sông
gột rửa hết lớp bụi đường. Nước sông mát lạnh. Không khí trong lành. Một vùng
đất cận nam nhiều sông rạch, cảnh sắc tiêu sơ nhưng phong thủy xem ra cũng có phần
đắc lợi. Nhìn chiếc bè trôi sông, thầy chợt nhớ đến cuộc hành trình phía trước:
“Sáng mai mình sẽ kết lại mấy chiếc bè để sang bờ bên kia. Đây là miền hoang dã
chướng khí, không thể lưu trú …”
Lót mớ cỏ khô lên mặt đá, thầy ngồi
định tâm giây lát rồi nhanh chóng chìm sâu vào giấc ngủ. Nửa đêm trở trời lạnh
buốt. Cảnh núi rừng yên ắng bỗng trận cuồng phong ầm ầm nổi dậy. Gió núi rít
lên từng hồi. Tiếng sóng vỗ xa xa nghe như tiếng kình ngư khuấy động. Giây lát
thầy trở giấc mơ màng. Cảm giác có ai đó kéo chiếc y mỏng đắp choàng qua vai,
thầy vội đưa tay giữ lấy… bỗng giật mình vì nhận ra một bóng người vàng rực
cùng tiếng nói thoảng nhẹ qua tai:
- Đại Đức sao không vào chùa nghỉ, lại
nằm ngoài trời, đêm hôm sương gió lạnh lẽo...
Tâm thức còn chập chờn, thầy lên tiếng:
- Ở nơi hoang vắng núi rừng này, làm gì
có được cảnh chùa để lưu trú.
- Có một ngôi chùa gần đây. Nếu Đại Đức
không phiền xin hãy theo tôi.
Thầy mở mắt kinh ngạc hỏi:- Có chùa ở
gần đây thật sao? Nhưng người là ai? Thiên thần hay ma quái?
- Là bực chân tu thì ngại gì ma quái
hay thiên thần. Người giữ tâm chánh định thì dù gặp ma chướng hay cảnh nghịch
cũng hóa giải hết. Đại đức là người ở xa mới đến, xin hãy theo tôi đến ra mắt
vị Bồ Tát chủ trì mảnh đất này.
- Bồ Tát… sao lại ở chốn này?
Thầy buột miệng hỏi rồi định thần nhìn
kỹ người đối diện. Một chú đạo ba chỏm, dáng vẻ tự nhiên ra chiều thong thả.
Một phong tư đạo mạo khác phàm. Vốn tính hiếu kỳ lại ưa thích chuyện phiêu lưu,
thầy liền gật đầu:
- Được gặp Bồ Tát quả là túc duyên kỳ
ngộ. Lại viếng cảnh chùa xa, có nơi tá túc qua đêm thì còn diễm phúc nào hơn.
Chú đạo nhẹ gót quay lưng. Vị thầy cũng
vội cầm y quảy đãy bước theo. Trước mặt hiện ra con đường dài rộng lối thênh
thang. Những hàng cây cao vút như không thể cao hơn được nữa. Phướn lộng, đèn
hoa giăng mắc khắp nơi. Rồi tiếng linh tiếng trống dồn dập vang dậy giữa không
trung. Một nghi lễ sắp bày để tiếp rước ai đó. Thầy chưa kịp hỏi thì cảnh Già
Lam đã hiện ra. Quả là nơi Thánh cảnh huy hoàng tráng lệ chưa từng thấy. Mái
chùa cong vút, óng ánh màu bạch kim. Cả bầu trời lúc này tỏa sáng như có cả
ngàn ánh thái dương cùng hội tụ. Không ngờ nơi chốn núi rừng hoang vắng lại có
một mái chùa trang nghiêm bề thế đến vậy.
Vị thầy theo chân chú đạo vào chánh điện.
Điện Phật rộng lớn, rực màu vàng chói. Ngoài tượng Phật Bổn Sư ra thì không
chưng bày gì khác. Bước xuống nhà Tổ, nhìn thấy có Bồ Tát ngồi trên chiếc ghế
đẩu bọc vải, thầy liền bước tới xá chào. Bồ Tát hỏi:
- Ông biết ta sao?
-Dạ... con chưa từng biết. Nhưng nghe
chú đạo nói, con nghĩ ngài là Bồ Tát Trì Địa. Vị Bồ Tát chuyên đi nối những cây
cầu gãy và đắp lại những con đường bị hư hoại... trên vùng đất mà ngài chủ trì
giáo hóa.
Bồ Tát mỉm cười không đáp. Một lúc lâu
mới cất tiếng:
- Vùng đất này là nơi chư Bồ Tát thường qua
lại kết giao pháp lữ. Nay ông đã đến đây, vậy thì hãy ở lại, vì chúng sanh gieo
pháp lành lợi lạc về sau...
Vị thầy nghe vậy liền vội thưa:- Ngài
là Bồ tát chủ trì cuộc đất này. Con được hội ngộ quả là phước duyên hy hữu.
Song con biết mình khó mà đảm trách được hạnh nguyện lợi tha to lớn như ngài.
Là người du phương hành đạo, con chẳng ngại gian nan vất vả. Nhưng đây là vùng
núi sông hiểm trở xa cách xóm làng... chỉ thích hợp cho người ẩn dật chuyên tu.
- Nếu ông phát tâm lập đạo tràng hóa độ chúng
sanh ở chốn này ắt có Long Thiên Hộ Pháp gia hộ, lo gì sự nghiệp hoằng pháp
không thành tựu. Ngày sau nơi đây sẽ trở thành chốn danh lam thắng tích. Chúng
sanh và hàng môn đồ nhờ ông mà thấm nhuần ân đức...”
… Ánh nắng chiều soi bóng xuống dòng
sông. Sân chùa đã vãn người qua lại. Trời đất bao la. Sóng triều lên xuống. Bến
đò quê yên vắng chợt vang lên khúc tiêu cầm dìu dặt mênh mông như hư như thật.
Tôi tỉnh thức giữa bốn bề thanh âm trầm lắng hòa nhã, mà ngỡ mình lạc bước vào
một cõi thần tiên mộng ảo. Nhìn quanh... Sư ông còn ngồi xem kinh bên chiếc bàn
nhỏ. Văn không biết đã biến đâu mất rồi. Ngồi bật dậy, tôi nói trong tiếng ngáp
dài:
- Khung cảnh yên tịnh và gió mát làm
con ngủ ngon quá. Mà Văn đâu rồi thưa sư ông?
Sư ông ngước nhìn lên, khẽ đáp:- Văn
xuống chánh điện ngồi thiền đã gần một giờ rồi. Cũng sắp xong. Thấy con ngủ
ngon quá, cậu ấy không nở đánh thức. Văn bảo lần tới sẽ dẫn con tới dự khóa tu
thiền…
Quyển sách trên tay tôi suýt rơi xuống
đất. Thằng Văn làm tôi ngạc nhiên quá đổi. Chưa bao giờ nghe hắn đi chùa, chứ
nói gì đến chuyện tu thiền. Tôi lấp bấp hỏi:
- Văn mà ngồi… thiền. Thật là chuyện
lạ. Lâu nay hắn chẳng hề hở miệng với con…
Sư ông chậm rãi nói: - Khuôn viên chùa
có nhiều cây cao thoáng mát yên tịnh, cách xa dân cư phố thị. Cuối tuần có
nhiều thanh thiếu niên tìm tới tu tập thiền quán. Mọi người có thể đến chùa bất
cứ lúc nào, chỉ để được ngồi yên lặng trong một vài giờ… vừa thư giản vừa tận
hưởng bầu không khí trong lành. Khi đối diện với nhiều bất ổn lo âu trong cuộc
sống, con người ta thường có khuynh hướng trở về nội tâm. Ngồi thiền là một học
phương pháp an tâm, sống trong chánh niệm. Sư cùng quý thầy hằng tuần đều có
giảng pháp và hướng dẫn phương pháp tu thiền định tâm.
Tôi dè dặt hỏi:-Thưa sư ông, lúc mới
đến, con có nhìn thấy nhiều người đang thiền hành, có người thì yên tọa trên
băng đá hoặc ngồi ngay dưới thảm cỏ. Thật là một chốn thiền môn an tịnh. Nhưng
con nghe nói... chùa được xếp hạng di tích lịch sử nên khách thập phương chiêm
bái ngày một đông, kéo theo những người buôn bán xô bồ phức tạp. Người ta còn
cho xây bến đò ngay trước mặt chùa đưa đón khách du lịch qua cù lao. Như vậy
chẳng những làm ảnh hưởng đến cảnh quan môi trường và mái chùa cũng dần mất đi
sự thanh tịnh yên tĩnh.
Sư ông gật đầu tiếp lời: - Xã hội phát
triển. Thời đại công nghiệp cũng tác động ít nhiều đến cửa chùa. Nhưng đó là
cuộc sống bon chen bên lề xã hội. Mọi chuyện buôn bán vui chơi đều diễn ra bên
ngoài. Người đã bước chân vào cổng chùa, dù chỉ để dạo cảnh xem hoa cũng phải biết
giữ lòng thanh tịnh, đi đứng nhẹ nhàng, lời nói cử chỉ hòa nhã từ tốn. Những
ngày rằm lớn có đông khách vãng lai vào lễ chùa, một khi đã bước vào đây thì ai
cũng biết tuân thủ giữ mình. Cửa Phật từ bi rộng mở. Giáo lý Phật đà luôn nói
đến thuật ngữ tùy duyên. Tùy duyên mà vẫn bất biến. Bất biến mà lại tùy duyên.
Chơn lý suốt mấy ngàn năm vẫn vậy. À! Sư ông thấy con có đọc qua quyển sách...
- Dạ con mới đọc có ít trang. Theo con
biết thì đây là tập truyện vừa có giá trị lịch sử vừa mang tính nhân văn thời
đại. Viết về một con người, một sự kiện có thật với mạch văn lưu loát, diễn cảm
y như người trong cuộc đã sống cách đây mấy trăm năm thật là sống động. Sư tổ
ngày xưa dừng chân bên dòng sông, giữa cảnh hoang vu bốn bề cây xanh nước bạc,
Người ắt đã nhận ra thiên thời địa lợi. Người trước mở đường. Người sau tiếp
nối. Chốn Già Lam ngày một phát triển đúng với tâm hạnh và nguyện lực của Tổ
sư… Thưa Sư ông! Thật thú vị khi biết về lịch sử của một ngôi chùa cổ. Song con
chỉ hiểu bấy nhiêu. Ngoài ra không dám có ý kiến gì ạ…
Sư ông mỉm cười:- Con nhận xét thật
tinh ý. Sư ông viết theo tài liệu để lại hằng trăm năm và qua lời kể của Tôn
Sư. Chỉ là ghi chép vài sự kiện về công trạng đức độ của vị Tổ khai sơn Tổ
Đình. Công trạng của người xưa nói sao cho hết. Người vì pháp quên thân càng
không muốn lưu lại dấu tích. Nhưng hậu thế chúng ta không có quyền quên. Ghi
nhớ ân đức của người xưa để tiếp nối truyền thừa. Ghi nhớ và học theo hạnh
nguyện của Tổ sư mà lo vun bồi đạo nghiệp, lợi lạc quần sanh. Vạn pháp đều là
mộng ảo giai không. Nhưng từ có mà chuyển thành không phải trải qua bao kiếp tu
hành đạt đạo. Nói gì thì lịch sử vẫn luôn mang một giá trị truyền lưu nhất
định.
Trời đã chiều lắm rồi, thấy tôi sốt
ruột nhìn ra bờ sông, Sư ông vội nói:
- Con xuống dưới xem Văn xả thiền chưa.
Nếu có duyên ngày nào đó con ghé lại học thiền và chúng ta lại có dịp bàn luận
về văn chương Phật pháp, cũng là cơ duyên để con học hỏi.
... Văn ngồi thiền trên chánh điện. Anh
chàng xưa nay có lối sống buông thả vô định. Không ngờ chỉ qua vài khóa tu
thiền mà tư tưởng đã biến đổi nhanh như vậy. Văn muốn cho tôi thấy sự thay đổi
một cách bất ngờ. Và tôi đã thật sự bất ngờ.
Bên dòng sông... từng đợt sóng triều xuống lên
không dứt. Chỉ có lòng người trở về là hoàn toàn tĩnh lặng an vui thanh thản ngay
giữa bến bờ sanh diệt.