XXV. PHẨM
TỲ-KHEO
(BHIKKHUVAGGA)
344. Chế phục được mắt, lành thay,
chế phục được tai, lành thay, chế phục được mũi, lành thay, chế phục được lưỡi,
lành thay, chế phục được thân, lành thay, chế phục được lời nói, lành thay, chế
phục được tâm ý, lành thay, chế phục được hết thảy, lành thay; Tỳ-kheo nào chế
phục được hết thảy thì giải thoát hết khổ.
345. Gìn giữ tay chân và ngôn
ngữ, gìn giữ cái đầu cao[196], tâm ưa thích Thiền định, ở riêng một
mình và tự biết đầy đủ; ấy là bậc Tỳ-kheo.
346. Tỳ-kheo biết thuần hóa ngôn
ngữ, khôn khéo mà tịch tịnh, thì khi diễn bày pháp nghĩa, lời lẽ rất hòa ái, rõ
ràng.
347. Tỳ-kheo nào an trú trong
lạc viên Chánh pháp, mến pháp và tùy pháp, tư duy nhớ tưởng pháp, thì sẽ bị
thối chuyển.
348. Chớ nên khinh điều mình đã
chứng, chớ hâm mộ điều người khác đã chứng. Tỳ-kheo nào chỉ lo hâm mộ điều
người khác tu chứng, cuối cùng mình không chứng được Tam-ma-địa (chánh định)[197].
349. Tỳ-kheo nào dù tu chứng
được chút ít mà không khinh ghét sự chút ít đã được ấy, cứ sinh hoạt thanh tịnh
và siêng năng, mới thật đáng được chư Thiên khen ngợi.
350. Đối với danh và sắc không
chấp “ta” “của ta”. Không “ta” và “của ta” nên không ưu não. Người như vậy mới
đáng gọi là Tỳ-kheo.
351. Tỳ-kheo an trú trong tâm từ
bi, vui thích giáo pháp Phật đà, sẽ đạt đến cảnh giới tịch tịnh an lạc, giải
thoát các hành (vô thường).
352. Tỳ-kheo tát nước thuyền này[198],
hễ hết nước thì thuyền nhẹ và đi mau. Đoạn hết tham dục và sân nhuế trong thân
này thì mau chứng Niết-bàn.
353. Tỳ-kheo nào đoạn năm điều[199],
bỏ năm điều[200], siêng tu năm điều[201], vượt khỏi năm
điều say đắm[202], Tỳ-kheo ấy là người đã vượt qua dòng nước lũ[203].
354. Hãy tu định, chớ buông
lung, tâm chớ mê hoặc theo dục. Đừng đợi đến khi nuốt hòn sắt nóng mới ăn năn
than thở.
355. Không có Trí tuệ thì không
có Thiền định, không có Thiền định thì không có Trí tuệ. Người nào gồm đủ Thiền
định và Trí tuệ thì gần đến Niết-bàn.
356. Tỳ-kheo đi vào chỗ yên
tĩnh, thời tâm thường vắng lặng, quán xét theo Chánh pháp, được thọ hưởng cái
vui của siêu nhân.
357. Người nào thường chánh niệm
đến sự sanh diệt của các uẩn thì sẽ được vui mừng. Nên biết: Người đó không
chết.
358. Nếu là Tỳ-kheo sáng suốt,
dù ở trong đời, trước tiên vẫn lo nhiếp hộ các căn và biết đủ, lo hộ trì giới
luật.
359. Thái độ thì phải thành
khẩn, hành vi thì phải đoan chánh. Được vậy, họ là người nhiều vui và sạch hết
khổ não.
360. Cành hoa Bạt-tất-ca[204]
bị úa tàn như thế nào, Tỳ-kheo các ông cũng làm cho tham sân úa tàn như thế.
361. Tỳ-kheo nào thân tịch tịnh
ngữ tịch tịnh, tâm an trú tam muội, xa lìa dục lạc, Tỳ-kheo ấy là người tịch
tịnh.
362. Các ngươi hãy tự cảnh sách,
các ngươi hãy tự phản tỉnh! Tự hộ vệ và chánh niệm, mới là Tỳ-kheo an trụ trong
an lạc.
363. Chính các ngươi là kẻ bảo
hộ cho các ngươi, chính các ngươi là nơi nương náu cho các ngươi. Các ngươi hãy
gắng điều phục lấy mình như thương khách lo điều phục con ngựa lành.
364. Tỳ-kheo đầy đủ tâm hoan hỷ,
thành tín theo giáo pháp Phật đà, sẽ đạt đến cảnh giới tịch tịnh an lạc, giải
thoát hết các hành (vô thường).
365.
Tỳ-kheo tuy nhỏ tuổi mà siêng tu giáo pháp Phật đà, thì họ là ánh sáng chiếu
soi thế gian như mặt trăng ra khỏi đám mây mù.