VII.
PHẨM A LA HÁN[64]
(ARAHANTAVAGGA)
90. Người đã giải thoát hết
thảy, đã dứt hết thảy buộc ràng[65], là người đi đường đã đến đích[66],
chẳng còn chi lo sợ khổ đau.
91. Kẻ dũng mãnh chánh niệm, tâm
không ưa thích tại gia; ví như con ngỗng trời, khi ra khỏi ao, chúng bỏ lại cái
ao hồ không chút nhớ tiếc[67].
92. Những vị A-la-hán không chất
chứa tài sản[68] biết rõ mục đích sự ăn uống[69], tự tại
đi trong cảnh giới: “không, vô tướng, giải thoát”[70], như chim bay
giữa hư không, khó tìm thấy dấu vết.
93. Những vị A-la-hán đã dứt
sạch các lậu hoặc[71], không tham đắm uống ăn, tự tại đi trong cảnh
giới “không, vô tướng, giải thoát” như chim bay giữa hư không, khó tìm thấy dấu
vết.
94. Những vị A-la-hán đã tịch
tịnh được các căn như tên kỵ mã đã điều luyện được ngựa lành, nên không còn
phiền não ngã mạn, được hàng nhơn thiên kính mộ.
95. Những vị A-la-hán đã bỏ hết
sân hận, tâm như cõi đất bằng, chí thành kiên cố như nhân đà yết la[72],
như ao sâu không bùn, nên chẳng còn bị luân hồi xoay chuyển.
96. Những vị A-la-hán ý nghiệp
thường vắng lặng, ngữ nghiệp, hành nghiệp thường vắng lặng, lại có chánh trí
giải thoát, nên được an ổn luôn.
97. Những vị A-la-hán chẳng còn
phải tin ai[73], đã thấu hiểu đạo vô vi, dứt trừ vĩnh viễn nguyên
nhân[74] cùng quả báo ràng buộc[75], lòng tham dục cũng
xa lìa. Thật là bậc Vô thượng sĩ.
98. Dù ở xóm làng, dù ở núi
rừng, dù ở đất bằng, dù ở gò trũng[76], bất cứ ở chốn nào mà có vị
A-la-hán thì ở đấy đầy cảnh tượng yên vui.
99.
Lâm dã là cảnh rất vui đối với vị A-la-hán, nhưng người đời chẳng ưa thích;
trái lại, dục lạc là cảnh ưa thích đối với người đời, vị A-la-hán lại lánh xa.