KỆ NHẬP MÔN
Thành Kính Đảnh lễ Ðức Thế Tôn, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Chánh Giác
Lòng thương xót tuôn đổ trên
ngàn vạn sanh linh.
Tuệ Giác đấng Mâu Ni lan toả vạn vật tri giác.
Tâm ngài truyền toả tình thương tràn cõi giới
Sau Hiện Song Thông[3],
ngài ngự trên ngai
Tòa Tháp Bảo nơi cõi Tam Thập tam Thiên.[4]
Tựa Thái dương toả sáng đỉnh Du-Càn-Da-La
Trên đỉnh Pandukambala, ngai đá ngài toạ lạc.
Dưới gốc cây tên gọi Paricchattaka
Nhờ tuệ giác ngài ban thời pháp
Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) do chư thiên dẫn lối.
dẫn thân mẫu[5]
ngài tới từ muôn cõi nhân sinh.
vây quanh ngài từ muôn phương vạn hướng.
Tôi bái phục dưới chân Giác Giả vinh quang;
Tôi tôn kính Tăng Ðoàn cùng giáo pháp.
Chẳng điều ác nào khiến ngài phải khuất phục.
Trước Tam Bảo, Chúa Tể mọi chư thiên.
Rồi sau đó, Làm Lãnh Chúa mở miệng ngài giảng dạy,
Cho Chư thiên giáo lý[6]
cao siêu và súc tích.
Cho Xá-lợi-phất
Trưởng Lão, đang khi ngài hầu hạ.
Ðấng Tuệ Giác trên bờ hồ Anotatta[7].
Rồi những gì trưởng Lão đã nghe, và chứng kiến.
Cho Tăng Ðoàn khắp muôn cõi dân gian ngài giảng dạy.
Ðể hết thảy nhờ ngài truyền dạy mà ghi nhớ.
Rồi khi Ðại Hội nhóm họp qui tụ đông đủ.
Lại nhờ tới Quí Tử Tỳ-đề-ha[8]
(Videhi). nhắc lại.
Chính những lời giảng dạy ngài đã cùng diễn giảng.
Buddhaghosa[9],
Tỳ-khưu vô tỳ vết.
Ðầy đức độ, và đạt đến giác ngộ cao siêu.
Những gì Vi Diệu Pháp mang ý nghĩa từ lâu.
Ngài giải thích cho bá tánh bằng mọi phương cách.
Bản chú giải cổ xưa truyền “tụng niệm” tại Ðại Hội lần đầu,
Cho các vị chức sắc Cao tăng, Mahakassapo,
Sau này đến lượt các chư vị tiên tri hiền triết.
Ngài Mahīnda
được đem sang rao giảng tại Ceylon .
Một hòn đảo duy nhất được diễm phúc đón nhận,
Cả bằng lời truyền dạy lẫn ghi vào sách vở[10],
Bằng ngôn ngữ của chính dân bản xứ
[2] Lựơc bớt dần những điều truyền khẩu xa xưa ghi lá dừa-thốt nốt,
Ðã có thời Tambapanni rất thịnh hành, rồi lại truyền
Ghi lại bằng văn từ hoàn hảo trên lá cây (thốt nốt).
Tuân thủ mọi quy luật của nguyên bản kinh văn,
Soi sáng tư tưởng cho những ai đang cư ngụ
Trong Linh Tự Vĩ Ðại, không vướng mắc bất kỳ một tỳ vết,
Cũng không căn cứ trên pha tạp dị giáo[11],
Mang ý nghĩa đích thực Vi Diệu Pháp truyền dạy ra.
Bằng ngôn từ đầy trí tuệ chọn lọc còn thuyết phục các vị thánh hiền.
Từ những lời chú giải Kinh tạng được truyền tụng
Tôi kể lại ý nghĩa trung thực Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhimagga).
Gồm những điểm cần phải tu tập.
Ðể đạt tới hành vi chánh trực, hiểu biết thâm sâu và giác ngộ.
Vì vậy ta tuyên bố từng điểm giáo pháp gộp trong Kinh tạng.
Hãy để tâm chú ý lắng nghe,
Khi ta diễn giảng Vi Diệu Pháp[12]
Gồm những điều khó hiểu và cực kỳ phức tạp.
Ðể có dịch được nghe và được hiểu trọn vẹn.
Trong
tài liệu này, ‘Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) có nghĩa là gì?
Chính là điều trổi vượt hơn và tách biệt khỏi Pháp (tức là các Kinh
tạng). Tiếp đầu ngữ ‘Abhi’ cũng tương tự với ‘Ati’, được sử dụng
theo nghĩa điều gì đó vượt trội hơn hẳn và độc đáo như trong các
đoạn ta đọc thấy ‘Hỡi các vị, tôi phải chịu những nỗi đau cùng cực
áp đảo (abhikkamantī);
và xin đừng làm dịch bớt
[13](những
nỗi đau đó)’; và ‘bằng vẻ đẹp[14]
kiều diễm kiệt xuất (abhikkantā)’.
Còn nữa: ‘Do đó, khi những tấm màn che nắng và cờ xí được chăng lên,
tấm màn che nắng nào trổi vượt hơn về kích cỡ và có mầu sắc và hình
dáng đặc biệt nổi bậc thì được gọi là ‘atichattam’, (màn che
nắng tuyệt vời nhất) và cờ xí nào với khổ rộng nhất và được trang
điểm với nhiều hình vẽ và mầu sắc lộng lẫy nhất cũng được gọi là
atidhaja, ‘tức là lá ưu việt hẳn.’ Và ngay cả khi các hoàng tử
và các vị Chư thiên tụ họp lại với nhau, vị hoàng tử nào nổi bậc đặc
biệt và vượt trội hơn hẳn với các vị khác về gốc gác thân tộc, về
của cải tài sản, rồi dáng vẻ tráng lệ, rồi quyền thế và nhiều thành
tích khác ta cũng gọi vị hoàng tử đó là atirājakumāra,
‘tức là
Hoàng Tử thượng hạng’; và rồi một vị Chư Thiên nào đó cũng nổi bậc
và vượt trội hơn hẳn những vị khác do tuổi tác, sắc đẹp, quyền uy,
vẻ lẫm liệt oai phong cộng với những thành tích đa dạng khác nữa
cũng được gọi là atideva hay abhideva, ‘vị chư thiên không ai
sánh bằng. Cũng tương tự như vậy, một vị Phạm Thiên (Brahma) cũng
được gọi với tên là Atibrahma (Ðấng Phạm Thiên ưu việt’).
Ngay cả, ‘giáo pháp’ hay ‘chánh pháp’cũng như vậy và được gọi là Vi
Diệu Pháp (Abhidhamma), vì giáo pháp này trổi vượt và khác
biệt do nhiều phẩm chất đa dạng hơn so với ‘giáo pháp’ bình thường
khác. Trong Kinh tạng (Suttanta), thì Ngũ “Uẩn” chỉ được phân biệt
một cách cục bộ chứ không mang tính triệt để. Trong tác phẩm Vi Diệu
Pháp (Abhidhamma), Ngũ Uẩn được phân biệt đầy đủ nhờ phương
pháp phân biệt- thành chương Kinh tạng, phân biệt-Vi Diệu Pháp (Abhidhamma)
và cuối cùng là giáo lý. Cũng tương tự như vậy đối với 12 xứ, 18
giới, Tứ Diệu Ðế, hai mươi hai quyền và mười hai duyên khởi. [3] Chỉ
duy nhất trong Quyền Phân biệt[15]
(Indriya Vibhaṅga)
là không
có sự phân biệt- theo Kinh tạng, và trong Phân biệt về duyên khởi
lại thiếu mất phương pháp giáo lý và trong Kinh tạng, Bốn niệm xứ
(application of Mindfulness) được phân biệt theo từng phần, tuy
nhiên không triệt để. Nhưng trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma),
chúng được phân biệt đến từng chi tiết theo ba phương pháp. Và tương
tự như vậy đối với Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Thất Giác Chi, Bát
Chánh Ðạo, Bốn Thiền (Jhāna),
Bốn Vô Lượng, Ngũ Giới, Tứ Vô Ngại Giải. Trong số những thành tố
này, chỉ duy Ðiều Học (Sikkhapada) Phân biệt, lại không có sự
phân biệt-Kinh tạng trong đó. Trong Kinh tạng, Tuệ giác được phân
biệt theo từng phần, tuy không triệt để. Và tương tự như vậy đối với
những Phiền não (kilesa). Nhưng trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma)
còn tồn tại một cách phân biệt chi tiết về Tuệ giác theo bản mục lục
đã được sắp đặt: ‘Theo phương pháp đơn nhất, nền tảng Tuệ giác là[16]’
v.v... Tương tự như vậy, những Phiền não được phân biệt theo nhiều
cách thức, bắt đầu bằng phương pháp đơn nhất[17].
Trong Kinh tạng, nguồn gốc vũ trụ cũng được phân biệt thành từng
phần, chớ không triệt để. Tuy nhiên nhờ ba phương pháp trong Vi Diệu
Pháp (Abhidhamma) mà vũ trụ được phân biệt một cách triệt để.
Do đó, cần hiểu rằng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) vượt quá và
khác biệt với giáo pháp hay chánh pháp là vậy.
Các vị
Luận sư vẫn thống nhất ý kiến cho rằng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma)
được chia thành 7 bộ, đó là: Bộ Pháp Tụ
(Dhammasaṅganī),
Bộ Phân Tích (Vibhaṅga),
Bộ Chất Ngữ (Dhātukathā), Bộ Nhân
Chế Ðịnh (Puggalapaññatti), Thuyết Luận Sự (Kathāvatthu),
Bộ Song Ðối (Yamaka)
và Bộ Vị Trí (Paṭṭhāna).
Nhưng
trường phái Vitanda cho rằng: ‘Tại sao lại đưa Thuyết Luận Sự
(Kathavạtthu) vào Vi Diệu Pháp? Phải chăng Tissa, con trai của
Moggali, 218 năm sau khi Ðức Phật nhập Niết Bàn (Parinibbana) đã
phân biệt lại như vậy sao? Do đó, đây (chỉ) là lời các đệ tử Ðức
Phật nói ra như vậy mà thôi. Hãy loại bỏ điều này sang một bên’.
‘Vậy thì phải chăng trong Vi Diệu Pháp chỉ có 6 bộ mà thôi sao?”.
‘Tôi chẳng nói như vậy’. ‘Vậy bạn nói gì không?’. ‘Có bảy bộ cả
thảy’. ‘Bằng cách nào bạn có được 7 bộ?’. ‘Có một bộ được gọi là
Mahadhammahadaya (trong Bài Bình Luận Vĩ Ðại), do đó, tôi đã có
được 7 bộ. ‘Trong Mahadhammahadaya, chẳng có điều gì được nói
đến trong bộ Dhammahadaya
Vibhaṅga[18]
(Phân biệt) cả.
Và trong phần giáo lý còn lại, đặc biệt là bộ Mahadhammahadaya
của bạn, tự nó không đủ dài để làm thành một luận thuyết riêng
lẻ. Thế nên phải kể cả Thuyết Luận Sự (Kathāvatthu)
thì mới đủ
7 bộ. ‘[4] Không, không phải vậy đối với Thuyết Luận Sự (Kathāvatthu)
đâu, còn
có Maha-Dhātukathā[19];
nếu kể cả bộ này, tôi có được con số 7 bộ cả thảy’. ‘Nhưng điều này
cũng chẳng có gì mới mẻ cả[20].
Những kinh văn còn lại, đặc biệt là kinh văn trong Bộ vừa nêu trên
không đủ dài để được coi như là một tiểu luận. Do đó, Thuyết Luận Sự
(Kathāvatthu)
được kể
như là bộ thứ 7’. Khi Ðức Thế Tôn giảng dạy cho chúng ta bảy luận
thuyết, khi dụng tới vấn đề trong Thuyết Luận Sự (Kathāvatthu),
ngài bắt đầu dẫn nhập vào lý thuyết Bản Ngã (hoặc linh hồn) một yêu
cầu đòi hỏi 8 mặt, trong bốn câu hỏi mỗi câu lại chia thành hai cách
phân biệt[21]
dài gấp 5 lần như vậy và được sắp xếp thành một bản danh mục trong
đó mỗi kinh văn đều không đủ dài để có thể được coi như là một bài
tường thuật, được thông qua trong tất cả những Bài Pháp: ‘Phải chăng
chúng ta có nhận ra ý nghĩa một sự kiện thực sự và tuyệt đối không?
Có đấây. Thế phải chăng bằng phương cách giống hệt như vậy chúng ta
có nhận ra sự kiện thực tiễn và cơ bản đã nhận biết trước đó không?
Ðiều này thì không, ta không thể làm thế được. Hãy thừa nhận lời
phản bác đó đi. Phải chăng chúng ta hiểu được như vậy trong mọi
trường hợp lý lẽ của sự thật cơ bản và tuyệt đối chăng? Hay
không nhận ra được như vậy? Phải chăng con người ta luôn luôn
nhận biết được sự thật cơ bản và tuyệt đối chăng? Hay chúng ta không
làm được như vậy? Phải chăng chúng ta có hiểu được đủ mọi thứ
theo nghĩa đó hay chúng ta không thể làm được như vậy[22]?
Do đó, bằng cách chứng tỏ tám khía cạnh và những lời phản bác tương
ứng, Ðức Phật đã sắp đặt[23]
được một bản đề mục.
Giờ
đây, khi sắp xếp bản đề mục, ngài đã thấy trước là: sau khi ngài
viên tịch được 218 năm, thì Tissa, con trai Moggali, đang lúc ngồi
thiền giữa một ngàn Tỳ-khưu, sẽ soạn thảo được bộ
Kathāvatthu
một cách kỹ lưỡng, trong phạm vi Trường bộ (Dīgha
Nikāya),
cùng gộp lại 500 câu chính thống và 500 câu phi chính thống.
Như
vậy, Tissa, con trai của Moggali, đã chú giải tác phẩm này không dựa
trên hiểu biết của chính bản thân, nhưng căn cứ vào bản đề mục đã
được sắp đặt sẵn, Giống như phương pháp là Ðức Phật đã đưa ra. Do
vậy[24],
toàn bộ cuốn Thuyết Luận Sự trở thành lời của Ðức Phật. Căn cứ vào
thông lệ nào vậy? Thưa theo thông lệ [5] Bộ Madhupindika[25]
và những bộ khác[26]
. Trong Bộ Suttanta, sau khi sắp xếp phần mở đầu một bài Pháp, Ðức
Thế Tôn đã kết luận như sau: ‘Hỡi Chư vị Tỳ-khưu, nhờ những nhân
duyên[27]
này, những nhân tố kéo dài sự kiện tái sanh đang vây hãm con người
ta[28].
Ở thời điểm này, nếu chẳng có gì khiến ta hài lòng cũng như, tự hào,
hoặc để so sánh với, thì quả thật đây chính là điểm kết thúc của
khuynh hướng dục vọng tiềm ẩn v.v... – rồi ngài đứng dậy và nhập
thiền. Các Tỳ-khưu, đã đón nhận giáo lý của ngài, tiến lại gần
Mahakaccana và hỏi ngài ý nghĩa của phần mở đầu Ðức Phật Toàn Tri đã
sắp đặt. Vì không nhận được câu trả lời trực tiếp, vị Trưởng Lão đã
lên tiếng bằng cách tỏ lòng tôn kính Ðức Phật như sau: ‘Thưa chư
Tỳ-khưu, một người ước mơ và tìm kiếm sức sống sẽ ghi nhớ dụ ngôn
này về sức sống – Ðức Phật giống như lõi một thân cây, các đệ tử của
ngài là cành cây và lá cây xum xuê. Thưa chư Tỳ-khưu, đối với Ðức
Phật, đấng hiểu thấu tất cả chúng sanh, ngài đã thấy rõ chúng sanh
có khả năng nhận thức[29]
được, ngài chính là con mắt trí tuệ[30]
(hạ giới), là Ðấng Tuệ Giác[31]
nhập thế, ngài giống tựa những thành tố trí tuệ[32]
đối với hạ giới, tựa Ðạo Thánh Thiện
[33](Ariyan
Path) đối với hạ giới, là diễn giải và là người giác ngộ Tứ Diệu Ðế
ngài chú giải ý nghĩa Tứ Diệu Ðế đó, người đem lại bất tử trường
sinh, là bậc thầy giáo pháp, là Ðấng Như Lai. Sau khi ca ngợi Vị Ðạo
sư (đức Phật), theo lời thỉnh cầu của chư vị Tỳ-khưu, Ngài đã diễn
giải đến từng chi tiết ý nghĩa phần mở đầu bài Pháp ngài đã sắp đặt
và sai các vị ra đi với lời dặn dò như sau: ‘Thưa chư vị, nếu chư vị
muốn hãy cứ đến gặp Ðức Phật và hỏi ngài giải thích cho ý nghĩa
những gì chưa hiểu rõ. Xin chư vị nên chấp nhận những lời giải thích
của ngài, sao cho, nếu những giải thích đó phù hợp với sự toàn tri
toàn thức, thì xin quí chư vị hãy tiếp nhận; bằng không, xin hãy cứ
loại bỏ đi’. Họ đã quay lại với Ðức Phật và hỏi ngài. Ðạo sư (tức
Ðức Phật), không viện dẫn đến bất cứ lời phát biểu không đúng đắn
nào của Kaccana, đã ngẩng cổ lên cao, giống như chiếc trống bằng
vàng và hít một hơi dài qua miệng cao quý của ngài, yêu kiều tao nhã
như bông sen mới nở, ngài cất lên giọng Phạm Thiên[34]
và nói: ‘Tuyệt vời! Tuyệt vời!’ Ngài dặn dò thêm Vị Trưởng Lão: ‘Nầy
chư Tỳ-khưu, Mahakaccana thật uyên bác, Mahakaccana thật trí tuệ sâu
sắc. Nếu chư vị hỏi ta thêm cùng một câu hỏi này, ta sẽ trả lời đúng
như những gì ngài đã trả lời. Do đó, kể từ khi bậc Ðạo sư (đức Phật)
đồng ý tán thành, thì toàn bộ trở thành lời của Ðức Phật. Và tương
tự như vậy đối với các Bộ do ngài Ananda tôn giả diễn giải cũng như
nhiều vị khác nữa.
Từ đó,
đang khi giảng 7 bộ, lúc diễn giải tới bộ Thuyết Luận Sự (Kathāvatthu),
Ðức Phật đã sắp xếp bản đề mục như đã nói đến ở trên. [6] Trong khi
giảng, ngài đã thấy trước sau khi viên tịch được 218 năm, Tissa, con
trai của Moggali, trong lúc ngồi thiền giữa một ngàn chư vị Tỳ-khưu,
sẽ soạn thảo kỹ lưỡng bộ Thuyết Luận Sự (Kathāvatthu),
như đã nói đến ở trên. Tissa, con trai Moggali, đã chú giải bộ không
theo hiểu biết riêng của chính bản thân, nhưng căn cứ vào bản đề mục
Ðức Phật đã sắp đặt trước, cũng như dựa phương pháp do chính Bậc Ðạo
sư (tức Ðức Phật) đã đề ra. Do vậy, toàn bộ trở thành lời của Ðức
Phật. Từ đó, Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) gồm đầy đủ 7 bộ, kể cả
Thuyết Luận Sư ï(Kathāvatthu)
.
Ðến
đây, Bộ đầu tiên trong 7 bộ đó chính là
Dhammasaṅganī,
Bộ được phân thành bốn phần, gồm những phân biệt như sau: bàn về tâm
(consciousness), về Sắc, bản tóm tắt và giải thích. Trong phần phân
biệt theo tâm (consciousness), có tám loại Pháp thiện (trạng thái)
nổi lên trong cõi Dục giới, mười hai loại trạng thái tâm bất thiện
(trạng thái), mười sáu tâm quả thiện, bảy tâm quả bất thiện, mười
một loại tâm tố[35]û(kiriya);
năm loại tâm thiện nổi lên trong cõi Sắc, năm tâm quả từ đó mà ra,
năm tâm tố; bốn loại tâm thiện nổi lên nơi cõi Vô sắc, bốn tâm quả
từ đó mà ra, bốn loại tâm tố, bốn trạng thái tâm thiện siêu thế[36]
(lokuttara), bốn tâm quả từ đó mà ra; tổng cộng có tất cả tám
mươi chín loại tạo thành những phần sắp loại về tâm thức. Phần này
cũng được gọi là Chương nói về trạng thái tâm thức. Thuộc phạm vi
chuyện kể, phần này vượt quá sáu câu kệ[37],
nhưng khi triển khai, đúng là phần này có thể bàn đến vô tận và vô
lượng.
Tiếp
đến, là phần phân biệt Sắc,[38]
còn được biết đến là Chương bàn về Sắc, trong đó, Sắc được phân biệt
và sắp loại đến từng chi tiết, theo bản đề mục đã được sắp xếp
phương pháp đơn nhất, phương pháp đối ngẫu v.v... Về phạm vi văn
nói, phần này vượt quá hai bài kệ, nhưng khi triển khai, đúng là
phần này cũng có thể bàn đến vô tận và vô lượng.
Tiếp
theo là phần tổng kết căn cứ vào những căn (nguyên), các uẩn (yếu
hiệp), những ‘Môn’ (cửa), những thực trạng hiện hữu, hậu quả hay ý
nghĩa, nguyên nhân hoặc chủ đề, danh xưng và giới tính.
Phần này tóm tắt
căn (nguyên) và ngũ uẩn.
rọi các‘môn’các cõi hiện hữu, ý nghĩa và đề tài,
danh xưng, giới tính - và như vậy có tên gọi là Tổng Kết.
Phần
này cũng còn được gọi là Chương bàn về tóm tắt sắc[39].
Về phạm
vi văn nói, phần này vượt quá 3 bài kệ, nhưng khi triển khai thì
cũng có thể kéo dài vô tận và vô lượng.
Kế đó,
đến chương diễn giải, được kết thúc bằng hai câu kệ về tác hại (và
phi tác hại), và giải thích ý nghĩa Tam tạng (Pitakas), tạo thành
lời của Ðức Phật.[7] Chư vị Tỳ-khưu nào không thể nhớ được những
chuỗi đánh số trong Cuốn Sách Vĩ Ðại, thì cần trích dẫn đến phần
này. Về phạm vi văn nói, phần này vượt quá hai bài kệ, nhưng khi
triển khai, phần này cũng có thể kéo dài vô tận và không thể lường
được.
Do đó,
về phạm vi văn nói, tổng thể bộ
Dhammasaṅganī
vượt quá 13 bài kệ, nhưng khi triển khai, phần này cũng có thể kéo
dài vô tận và không thể lường được.
Những giới Danh
và Sắc
cùng nội dung, chú giải xét toàn khối -
là toàn bộ hiểu biết sâu xa và tinh tuý
của Ðức Phật đã giảng dạy.
Tiếp
theo sau bộ Dhammasaṅganī
là bộ
Phân biệt (Vibhaṅga),
gồm có 18 phần: phân biệt (Danh và Sắc), Ngũ Uẩn, các xứ, các giới,
Chân đế, quyền, nguyên nhân duyên khởi, Niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ
như ý túc, Giác chi, Ðạo, Thiền (Jhāna),
vô lượng điều học, vô ngại giải, Tuệ giác, các chủ đề thứ yếu, và
Pháp tâm. Trong số này, các uẩn được phân biệt theo ba phương pháp:
phân biệt-Bộ, phân biệt–Vi Diệu Pháp, và phân biệt theo học thuyết.
thuộc phạm vi Kệ, phần này không vượt quá 5 bài kệ, nhưng khi triển
khai, phần này cũng có thể kéo dài vô tận và không thể lường được.
Tiếp
sau đây, là các xứ và những gì còn lại cũng được phân biệt theo ba
phương pháp. Trong đó, phạm vi Kệ, phân biệt giác quan không vượt
quá một bài Kệ. Phân biệt những giới chiếm hai bài Kệ. Tương tự như
vậy liên quan đến Tứ Diệu Ðế. Trong việc phân biệt những quyền,
không có phương pháp Kinh. Thuộc phạm vi Kệ, phần này vượt quá một
Kệ, phân biệt những duyên khởi chiếm sáu bài Kệ, nhưng không có phần
học thuyết (hay giáo lý). Việc phân biệt những niệm xứ vượt quá một
bài Kệ. Tương tự như vậy đối với Tứ chánh cần, như ý túc, Giác chi
và đạo. Việc phân biệt thiền (Jhāna)
chiếm hai bài Kệ; việc phân biệt những vô lượng vượt quá một bài Kệ.
Trong việc phân biệt các điều học, không áp dụng phương pháp Kinh;
về phạm vi văn nói, phần này vượt quá một bài Kệ.[8] Tương tự như
vậy đối với vô ngại giải. Việc phân biệt Tuệ giác được phân nhỏ ra
thành mười phần. Về phạm vi văn nói, phần này chiếm ba bài Kệ. Việc
phân biệt các chủ đề thứ yếu cũng được phân nhỏ thành mười phần. Về
phạm vi văn nói, phần này chiếm ba bài Kệ. Việc phân biệt pháp tâm
được phân nhỏ ra thành ba phần và thuộc phạm vi văn nói, phần này
vượt quá hai bài tường thuật. Nhưng toàn bộ những phạm vi vừa kể
trên có khả năng triển khai đến vô tận và vô lượng. Do đó, về phạm
vi văn nói, bộ phân tích vượt quá 35 bài Kệ, nhưng khi được triển
khai, quả thật là bao la vô tận và vô lượng được.
Tiếp
theo, là bộ có tên là Bộ Chất Ngữ (Dhātukathā),
gồm 14 phần: (1) phần yếu hiệp (grouped) và bất yếu hiệp
(ungrouped). (2) phần bất yếu hiệp được do đặc tính bất yếu hiệp.
(3) phần yếu hiệp lại do đặc tính bất yếu hiệp mà ra. (4) phần yếu
hiệp do đặc tính yếu hiệp mà có. (5) phần bất yếu hiệp do đặc tính
yếu hiệp mà ra. (6) phần tương ưng (associated) và phần bất tương
ưng (disscociated). (7) phần bất tương ưng do tương ưng mà ra. (8)
phần tương ưng do đặc tính bất tương ưng mà có. (9) phần tương ưng
do tương ưng mà có. (10) phần bất tương ưng do đặc tính bất tương
ưng mà ra. (11) phần tương ưng và bất tương ưng do đặc tính bất yếu
hiệp mà ra. (12) phần yếu hiệp và bất yếu hiệp do đặc tính tương ưng
mà có (13) phần tương ưng và bất tương ưng do đặc tính bất yếu hiệp
mà ra và (14) phần yếu hiệp và bất yếu hiệp do đặc tính bất tương
ưng và phi tập hợp mà có. Về phạm vi văn nói, phần này vượt quá sáu
bài Kệ, nhưng khi triển khai, quả thật là bao la vô tận và vô lượng.
Kế đó,
đến Bộ Nhân Chế Ðịnh (Puggalapaññatti) dưới sáu tiêu đề:
những khái niệm về ngũ uẩn (hay tập hợp), về các xứ, về các giới,
các đế, các quyền về cá nhân. Về phạm vi văn (lời) nói, phần này
vượt quá năm bài Kệ, nhưng khi triển khai, quả thật là bao la vô tận
và vô lượng.
Kế đó,
đến bộ Thuyết Luận Sự (Kathāvatthu)
cùng với 1000 Bộ: 500 Bộ chính thống và 500 Bộ không chính thống. Về
phạm vi văn nói, như đã được nhắc (kể) lại trong các Ðại Hội và hiện
nay bản thảo viết trên lá cọ không còn nữa, bộ này cũng dài tương tự
như Truờng Bộ
Kinh (DīghaNikāya),
nhưng khi phát triển, quả thật là bao la vô tận và vô lượng.
Kế đó,
đến Bộ Song Ðối (Yamaka), được chia thành mười phần: những
uẩn (tập hợp), xứ, giới, chân đế, hành[40],
tùy miên (Anusaya) tiềm tàng, tâm (hay ý thức), pháp, và các quyền.
Thuộc phạm vi văn nói, phần này chiếm tới 120 bài Kệ, nhưng khi
triển khai, quả thật là vô tận và vô lượng.
Kế đó,
là Cuốn luận Vĩ Ðại, còn được gọi với tên khác là
Paṭṭhāna – Vị trí,
được chia thành 24 duyên, theo phương pháp liên quan, đó là: Nhân
duyên, Cảnh duyên, Trưởng duyên, Vô gián duyên, Ðẳng vô gián duyên,
Ðồng sanh duyên, Hổ tương duyên, Y chỉ duyên, Thân y duyên, Tiền
sanh duyên, Hậu sanh duyên, Tập hành duyên, Nghiệp duyên, Quả duyên,
Thực duyên, Quyền duyên, Thiền duyên, Ðạo duyên, tương ưng với
duyên, Bất tương ưng duyên, Hiện hữu duyên, Vô hữu duyên, Ly duyên
và Bất ly duyên.
Ta cần
lưu ý đến những điểm sau đây trong bộ
Paṭṭhāna – Vị trí:
những đoạn Mẫu đề tam về ‘thiện pháp’, v.v..., có tới 22 đoạn. ‘Các
pháp (hoặc thuộc tính tâm lý) là những nguyên nhân duyên hay không,
có hại hoặc vô hại’; có cả thảy 100 mẫu đề nhị theo kiểu này. Từ
‘các pháp liên quan đến trí hay không gì liên quan đến trí’, đến
‘Thiền quán ‘diệt’ và Thiền quán ‘phi căn nguyên’: những gì còn lại
gồm 42 đoạn Mẫu đề nhị. Trong số 22 mẫu đề tam và 100 mẫu đề nhị do
Ðức Thế Tôn Toàn Tri pháp, thì toàn bộ đều là những lời trực tiếp
của Ðấng Chinh Phục và đã tạo thành bản đề mục cho bảy bộ luận này.
Thế rồi
42 mẫu đề nhị khác xuất phát từ đâu mà có? Chúng được ai sắp đặt và
thuyết pháp? Thưa rằng chúng xuất phát cùng với Xá-lợi-phất
(Sāriputta),
tướng quân Chánh Pháp, đã được chính ngài sắp đặt và thuyết pháp.
Nhưng ngài không sắp đặt điều đó theo Tuệ giác-tự tạo riêng của
mình. Chúng đã được thu tập từ kinh Eka-Nipata và
Duka-Nipata từ Tăng Chi Bộ (Anguttara), từ những Ðại Hội
(Sangiti) Phật giáo tiên khởi
và từ những kinh Dasuttarasuttantas trong bộ
Dīgha Nikāya
(Trường bộ kinh),
nhằm giúp đỡ các đệ tử nghiên cứu Vi Diệu Pháp, trong việc tham khảo
Suttantas (Kinh) của họ. Những mẫu đề tam và mẫu đề nhị này đều được
bố trí trong một chương tóm tắt. Trong những chương còn lại,
Vi-Diệu-Pháp đã được chú giải (cách đặc biệt), cho đến khi ta hiểu
thấu đáo được mẫu đề nhị về ‘tác hại’ (và phi tác hại).
Ðức Thế
Tôn giảng vị trí mẫu đề tam
Tīkā-Paṭṭhāna
theo cách thức nối tiếp liên tục chính xác, dựa trên 22 mẫu đề tam,
và bộ vị trí mẫu đề nhị Duka- Paṭṭhāna,
dựa trên 100 mẫu đề nhị. Sau đó, ngài giảng
Duka-Tīkā-Paṭṭhāna,
bằng cách lấy 22 mẫu đề tam và đưa vào 100 mẫu đề nhị. Thế rồi một
lần nữa, ngài lại giảng
TikaDuka-Paṭṭhāna,
bằng cách lấy 100 mẫu đề nhị[41]
và đưa vào 22 mẫu đề tam. [10] Và bằng cách đưa những mẫu đề tam vào
những mẫu đề tam, ngài đã giảng Tīkā
-Tīkā- Paṭṭhāna.
Và bằng cách đưa những mẫu đề nhị vào những mẫu đề nhị, ngài đã
giảng Duka- duka- Paṭṭhāna.
Có kinh văn cho rằng: ‘Các bộ Tika,
Duka, Dukatika, Tikaduka TikaTika
và Dukaduka thật đáng
ca ngợi và ước ao. Sáu phương pháp này thật sâu xa theo phương cách
liên tiếp liên tục chính xác. Trong cuộc đàm đạo bộ
Paṭṭhāna
cũng như bộ Tīkā-
Paṭṭhāna
cả hai đều dựa trên 22 mẫu đề tam.
Bộ
Duka-Paṭṭhāna
dựa trên 100 mẫu đề nhị. Ðức Phật đã giảng
DukaTīkā-
Paṭṭhāna bằng
cách đưa 22 mẫu đề tam vào 100 mẫu đề nhị; Ðức Phật giảng
Tīkāduka- Paṭṭhāna
bằng cách
đưa 100 mẫu đề nhị vào 22 mẫu đề tam; Ðức Phật giảng
TīkāTīkā-Paṭṭhāna
bằng cách đưa các mẫu đề tam trong số các mẫu đề tam đó; Ðức Phật
giảng Dukaduka-Paṭṭhāna
bằng cách đưa các mẫu đề nhị vào các mẫu đề nhị. Do đó, theo thứ tự
ngược lại, Bộ Paṭṭhāna
được chú giải theo 6 phương
thức. Vì thế, bài tường thuật nói rằng: ‘Các Bộ
Tīkā,
Duka, DukaTīkā Tīkā
Tīkā và
Dukaduka thật đáng ca ngợi. Sáu phương pháp này (được hiểu là
thuộc về phương pháp hoán vị) theo thứ tự ngược lại quả thật là sâu
xa’. Rồi một lần nữa, trong phối hợp phương pháp liên tiếp chính xác
và phương pháp thứ tự đảo ngược, cũng chính do Bộ Dukaduka-Paṭṭhāna
mà 6 phương thức đó đã được triển khai. Do đó, có kinh văn tường
thuật nói rằng: ‘Các Bộ Tīkā,
Duka, DukaTīkā, Tīkāduka, TīkāTīkā
và
Dukaduka thật đáng ca ngợi và kính phục. Sáu cách thức phối hợp
phương pháp liên tiếp chính xác và phương pháp thứ tự đảo ngược quả
thật là sâu xa’. Ngay tức khắc sau bài tường thuật này, Ðức Phật đã
pháp việc áp dụng cùng 6 phương thức phối hợp với phương pháp thứ tự
đảo ngược và phương pháp liên tiếp chính xác. Chính vì lý do đó đoạn
văn cho rằng: ‘Các bộ Tīkā, Duka,
DukaTīkā, Tīkāduka, TīkāTīkā
và DukaTīkā
thật đáng
ca ngợi và kính phục. Sáu phương pháp này (được hiểu là thuộc phương
pháp hoán vị) theo phương pháp thứ tự ngược lại và tiếp diễn chính
xác quả là sâu sắc’. Do đó, 6 phương thức liên tiếp chính xác, 6
phương thức thứ tự ngược lại, 6 phương thức phối hợp liên tiếp chính
xác và theo thứ tự ngược lại, 6 phương thức phối hợp thứ tự ngược
lại và phương pháp liên tiếp đúng đắn – gộp lại thành 24 duyên hệ
phổ quát do Bộ Paṭṭhāna
nhằm tạo
nên Bộ Vị Trí này.
Giờ đây
để hiểu hết chiều sâu Bộ Vi-Diệu-Pháp, ta cần phải hiểu rằng có cả
thảy bốn đại dương đó là: đại dương tái sanh, đại dương sông nước,
đại dương phương pháp và đại dương Tuệ giác. Trong đó:
“Samsara” Luân hồi chính là tên gọi - một đường nét liên tục nơi các
căn, nơi thành tố kể cả nơi ngũ uẩn. Ðây chính là đại dương tái
sanh. Chính vì điểm khởi đầu nhập thể tuyệt đối nơi mọi hữu thể xem
ra vẫn chưa rõ ràng – Cho dù giây phút khởi đầu này đã khởi sự rất
có thể một trăm năm qua [11] hoặc giả một ngàn năm, một trăm ngàn
năm, hoặc giả cả một trăm, một ngàn hoặc giả một trăm ngàn kỷ nguyên
vũ trụ mà trước đó các chúng sanh này chưa hề tồn tại hoặc đã được
sinh ra cùng thời với một vị vua hoặc giả cùng thời với đức Phật nào
đó - trước đó họ không hề tồn tại và cũng không thể lập ra một hạn
mức nào cả. ‘Nầy chư Tỳ-khưu, chưa ai phát hiện ra khởi điểm tột
đỉnh vô minh trước đó chúng sanh chưa tồn tại, nhưng sau thời điểm
đó chúng sanh xuất hiện cũng chưa được hé mở.’[42]
Bằng cách này, đại dương tái sanh chính là một bước khởi đầu chưa
được biết đến.
Và cũng
đã tồn tại một đại dương bao la được biết đến là đại dương chứa đầy
nước. Ðại dương này sâu 84 do tuần (do tuần (yojana). Không thể đo
được giòng nước là một trăm, một ngàn, mười ngàn, hoặc giả một trăm
ngàn thùng. Ta không thể tính toán hay đo lường được đại dương này.
Quả thật, ta chỉ có thể cho rằng đó là một khối nước không hơn không
kém. Ðây chính là đại dương sông nước bao la.
Thế còn
đại dương Tuệ giác thì thuộc loại nào? Thưa đó là Tam tạng, là lời
Ðức Phật phán ra. Là bởi vì chỉ cần nghiền ngẫm hai Bộ Tạng, đã đủ
cho niềm vui sướng vô tận bừng lên nơi tâm hồn những chàng trai
tráng là thành viên các thị tộc đã tỏ ra tin tưởng, tin tưởng vô hạn
và đã được phú cho Tuệ giác cao siêu. Hai Bộ Tạng đó là gì vậy? Thưa
đó là Luật Tạng và Vi Diệu Pháp. Niềm sung sướng mê ly bất tận đó đã
bừng lên nơi chư vị Tỳ-khưu đó, họ là những người đã nghiên cứu và
học hỏi kinh văn Luật Tạng và nghiền ngẫm cho rằng đó là lãnh vực
các Ðức Phật cần phải làm, chứ không phải là những phàm nhân khác.
Ðể có thể tuyên bố qui luật cho mỗi trường hợp sai phạm hoặc phạm
phải lỗi lầm, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng nơi sai phạm đó.
Niềm
vui sướng khôn tả cũng bừng lên nơi các đạo hữu, khi họ nhập thiền
về những ý nghĩa các việc siêu thế mang đầy màu sắc và tư cách thiện
pháp[43].
Còn
nữa, chư vị Tỳ-khưu, là những người nghiên cứu Vi Diệu Pháp, qua
được niềm vui sướng tột đỉnh bất tận trong khi nhập thiền định. Như
thể vô số các ngôi sao trên bầu trời nhóm họp lại thành những chùm
sao. Bậc Ðạo sư (đức Phật) đã thuyết pháp cho chúng sanh kể cả các
danh và Sắc, phân chia ra thành nhiều phần tử và định lượng khác
nhau – rồi thành các hữu thể tinh túy và sâu sắc, chẳng hạn nội dung
duy nhất[44]
của các uẩn, xứ, giới, quyền, lực, giác chi, nghiệp (kamma) và kết
quả của nó, và sự phân biệt giữa danh và sắc. Ta hãy xem xét câu
chuyện nói về kinh nghiệm này. Vị Trưởng Lão Mahagatigamiyatissa
[12] băng qua bờ biển đối diện Ấn Ðộ, với ý định tỏ lòng tôn kính
Cây Bồ-đề. Trong khi ngồi trên boong tàu, Vị Trưởng Lão nhìn vào đại
dương bao la, nhưng cả bờ biển bên này lẫn bờ bên kia đều không xuất
hiện trong tầm nhìn của vị Trưởng lão này. Chỉ thấy xuất hiện đại
dương bao la, phủ đầy bọt sóng bạc do những đợt sóng cuồn cuộn tạo
ra, tựa như một lớp bạc tỏa ra từ một luống hoa nhài. Vị Trưởng Lão
tự nhủ: Cái gì đặc biệt hơn – những đợt sóng nhấp nhô đại dương,
hoặc cơ sở phương pháp 24 phương thức phân chia trong Bộ Vị Trí? Sau
đó, những ranh giới đại dương vĩ đại bắt đầu tỏ hiện ra với chư vị
Trưởng Lão. Thật vậy, chư vị Trưởng Lão đã tự nhủ: Ðại dương này bị
giới hạn, bên dưới là mặt đất, bên trên là bầu trời, một bên là rặng
núi bao quanh cõi trần, còn bên kia là bờ biển. Nhưng những giới hạn
vũ trụ Paṭṭhāna
không rõ ràng. Và trạng thái sung sướng trào dâng trong tâm hồn vị
Trưởng Lão, khi vị Trưởng Lão nhập thiền định, thiền Ðịnh về giáo
pháp tinh tế và sâu sắc. Trong khi kìm chế trạng thái sung sướng và
gia tăng tầm nhìn của mình ngay cả trong lúc đang ngồi thiền, Vị
Trưởng Lão đã loại bỏ được tất cả những sự Phiền não, và trong khi
củng cố sự hoan hỷ tuyệt đỉnh là quả vị A-la-hán, Chư vị Trưởng Lão
đã tán tụng trong bài kệ nói về sự sung sướng:
Kẻ
nào[45]
là đệ tử đích thực của Ðấng Như Lai,
tựa như viên ngọc quý trong bàn tay của mình, Ngài nhìn rõ
những Nguyên Nhân duyên khới, từ đó vạn vật nổi lên.
truyền thuyết sâu xa và khó nhận biết, mà Ðấng Như Lai Vĩ Ðại
đã nhìn thấy được, và tất cả[46]
đều đã được giảng pháp[47]
tuần tự.
Ðây là phương pháp (chiêm ngắm) đại dương.
Thế còn
đại dương Tuệ giác là gì? Thưa đó là Toàn tri. Không thể phân biệt
được các đại dương tái sanh, đại dương sông nước bao la, đại dương
phương pháp, ngoại trừ có được ‘toàn tri.’ Do đó, Toàn tri chính là
đại dương Tuệ giác. Trong số bốn đại dương vừa nêu, đại dương phương
pháp được nói đến ở đây; bởi vì chính Ðức Phật, Ðấng Toàn Tri, đã
thâm nhập được đại dương[48]
này.
Và Ðức Thế Tôn, ngồi thiền
dưới gốc Cây Bồ-đề, đã thâm nhập được đại dương này và suy nghĩ
rằng: ‘Tầm nhìn của ta xuyên thấu qua đại dương này! Hãy nhìn kìa,
ngay cả đối với giáo pháp ta đã đạt thấu, ta đã đi tìm kiếm và hỏi
han trong hơn một trăm ngàn đại kiếp, trong hơn bốn A tăng kỳ không
kể xiết được, ta ngồi thiền trong tư thế xếp bằng (giống như ngồi
thiền trên ngai tòa), ta đã đẩy lùi mọi phiền não’. Và ngài còn ngồi
thiền trên ‘ngai” trong vòng bảy ngày nữa, nhập thiền định về giáo
pháp ngài đã giác ngộ. Thế rồi sau bảy ngày, ngài rời khỏi ngai tòa
và đứng nhìn chăm chú vào chiếc ngai không chớp mắt, ngài suy nghĩ:
‘Quả thật ta đã đạt đến giác ngộ từ trên ngai này’. Do đó, chính chư
thiên cũng nổi lên mối nghi ngờ nói rằng: ‘Chắc hẳn là hôm nay,
Siddattha vẫn còn phải hoàn tất một số công việc, bởi vì ngài vẫn
chưa thể rời khỏi ngai.’ Biết được mối nghi ngờ đó, để trấn át nó,
ngay tức khắc, Vị Ðạo sư (tức Ðức Phật) liền bay lên trời và Hiện
Song Thông. Phép lạ được diễn ra ngay tại ngai, dưới Cây Bồ-đề, và
được thực hiện ngay giữa đám đông đạo hữu Pataliputta[49]
đang nghe ngài hoàn toàn giống như Hiện Song Thông được thực hiện
dưới gốc cây Bồ-đề trinh trắng trong vườn Kanda. Như vậy, sau khi đã
thực hiện Hiện Song Thông, ngài ngự xuống tuần trời cao và ngài đã
đi lại giữa ngai và nơi ngài đã lưu lại trong vòng bảy ngày liền.
Bấy giờ
chẳng có một ngày nào trong suốt một quãng thời gian hai mươi mốt
ngày, thân xác Ðức Phật phát quang, và toả ra từ thân xác vị Ðạo sư
(đức Phật). Trong tuần lễ thứ tư, ngài ngồi thiền trong một ngôi nhà
xây bằng đá quí toạ lạc ở vùng đông bắc. Ngôi nhà đá quí đó không có
nghĩa là ngôi nhà được xây bằng bảy viên ngọc quí, nhưng là nơi ngài
chiêm nghiệm về bảy bộ Vi Diệu Pháp. Và trong khi ngài ngồi thiền về
những nội dung trong bộ Dhammasaṅganī,
thân thể của ngài không tỏa ra hào quang; tương tự như vậy đối với
việc hành thiền năm bộ kế tiếp. Nhưng khi ngài thiền đến Bộ Vị Trí,
ngài bắt đầu chiêm ngưỡng tư tưởng hai mươi tư mối tương quan nhân
quả phổ quát, về nguyên nhân và sự thể hiện v.v..., chắc hẳn đây là
dễ dàng ngài đạt đến giác ngộ ngay tại đó. Bởi vì giống như con kình
ngư Timiratipingala chỉ tìm được chỗ dưới độ sâu tám mươi tư ngàn do
tuần dưới dòng đại dương, cũng vậy, ngài thực sự đạt đến giác ngộ
chỉ trong Bộ Vị Trí này. Những hào quang sáu màu– xanh, vàng, đỏ,
trắng, hung hung và sáng chói – được toả ra từ thân thể của vị Ðạo
sư (đức Phật), nhờ việc giác ngộ ngài đã tìm ra, ngài nhập thiền
định về giáo pháp tinh tế và sâu sắc. Những hào quang màu chàm tỏa
ra từ mái tóc của ngài và những phần màu xanh dương từ ánh mắt ngài.
Nhờ những hào quang này, mà nguyên bề mặt bầu trời lộ ra như thể đã
được rải đầy bột thuốc nhỏ mắt, hoặc được bao phủ bằng lớp vải lanh
và những bông hoa sen, hay giống như một chiếc quạt quý phe phẩy,
hay một miếng vải màu sậm trải rộng ra. Những hào quang màu vàng tỏa
ra từ lớp da của ngài và những phần màu vàng của đôi mắt ngài. [14]
Nhờ những hào quang này, mà những vùng khác trên địa cầu chiếu sáng
như thể được phủ đầy một số chất lỏng màu vàng, hoặc dát bằng những
phiến đá mầu vàng, hoặc được rải đầy bột củ nghệ tây và
hoa-Bauhinia. Những hào quang màu đỏ tỏa ra từ thịt và máu của ngài
và những phần màu đỏ trên đôi mắt ngài. Nhờ những hào quang này,
những khu vực địa cầu mang đầy màu sắc, như thể được tô điểm bằng
bột chì màu đỏ, hoặc được phủ đầy chất lỏng cánh kiến được nấu chảy,
hoặc được bọc bằng những tấm chăn màu đỏ, hoặc được rải đầy hoa-hài,
san hô-biển và những bông hoa bandhujivaka. Những hào quang
màu trắng tỏa ra từ những bộ xương và những chiếc răng của ngài và
những phần màu trắng đôi mắt. Nhờ những hào quang này, những khu vực
địa cầu được tỏa sáng như thể đang chảy đầy tràn những giòng sữa
được đổ ra từ những lọ bạc, hoặc phủ đầy bằng một chiếc màn được làm
bằng những đĩa bạc, hoặc giống như một chiếc quạt bằng bạc phe phẩy,
hoặc như thể được bao phủ bằng những bông hoa như hoa nhài dại, hoa
huệ-nước, bông hoa tao nhã, hoa nhài và hoa cà phê. Những hào quang
màu hung hung và sáng chói tỏa ra từ những phần khác nhau của thân
thể ngài. Do đó, những hào quang sáu màu lộ ra và đã thu hút được
một khối lượng khổng lồ địa cầu. Ðịa cầu khổng lồ, với bề dày là
240. 000 Do tuần (yojana), xuất hiện tựa như một khối vàng được đánh
bóng lộng lẫy. Những hào quang xâm nhập trái đất và xuyên thấu tới
giòng nước bên dưới. Giòng nước nuôi dưỡng trái đất và có độ sâu
480. 000 Do tuần (do tuần (yojana)), xuất hiện tựa như lớp bụi vàng
được đổ ra từ những chiếc bình vàng. Chúng xuyên thấu giòng nước và
thu hút bầu khí quyển với bề dày là 960.000, xuất hiện tựa như những
cột bằng vàng dương lên thật cao. Trong khi xâm nhập bầu khí quyển,
những hào quang này tỏa ra khoảng không gian bao la bên dưới. Trong
khi tỏa lên phía trên, chúng xuyên thấu tới nơi ở của cõi tứ Thiên
Vương của thế giới. Lúc xâm nhập vào những chỗ này, chúng thu hút
cõi Tam Thập Tam Thiên (Tavatimsa), và từ đó, đến Dạ-ma (Yama), Cõi
Trời Ðâu Xuất (Tusita), Hóa Lạc Thiên (Nimmarasati), cõi Tha Hóa Tự
tại Thiên (Paranimmita-vāsavatti),
từ đó, đến chín cõi Phạm Thiên, Quảng Quả Thiên (Vehapphala), rồi
đến năm cõi Ngũ tịnh cư và đến bốn cõi trời Vô sắc (Aruppa). Khi đã
thâm nhập được cõi cuối cùng này, những hào quang này tỏa ra khoảng
không gian bao la xuyên tới tận những hệ cõi trời vô biên. Nơi nhiều
cõi đó, không hề có ánh sáng trên mặt trăng, mặt trời, chùm sao,
không nơi nào có ánh sáng rực rỡ, ngay cả ở trong công viên, nơi các
tòa nhà, nơi cây Như ý (wish-yielding-tree) của các vị chư thiên,
ngay trên thân thể và những trang phục vua chúa chư thiên cũng không
có thứ ánh sáng đó. Ngay cả Ðấng Phạm Thiên Vĩ Ðại, có khả năng
khuyếch tán ánh sáng xuyên qua hàng tỉ cõi trần, [15] cũng trở nên
giống như một con đom đóm-tỏa sáng vào lúc bình minh toả sáng. Chỉ
thấy xuất hiện đường nét mặt trăng, mặt trời, chùm sao, các công
viên, các tòa nhà, và thân cây như ý (wish-yielding-tree) của chư
thiên. Như vậy, có quá nhiều khoảng không gian được chan hòa hào
quang của Ðức Phật. Sức mạnh này không phải là phép thần thông, cũng
không phải là sức mạnh tu chứng. Nhưng là giòng máu Vị Chúa Tể càn
khôn trở nên bừng sáng khi ngài nghiền ngẫm suy tư giáo pháp tinh tế
và sâu sắc. Tương tự như vậy cơ sở tư tưởng tự nhiên và vẻ bề ngoài
của ngài. Yếu tố màu sắc, do trật tự chất năng lượng ra, do tư tưởng
phát sinh ra, tự kiên định củng cố vững vàng nơi một bán kính lên
tới dăm ba mét (80 cubit). Bằng hiện trạng như vậy ngài đã hành
thiền suốt cả một tuần lễ liền.
Ðang
khi hành thiền trong suốt bảy ngày bảy đêm như vậy, ngài đã thâm
nhập được vào giáo pháp sâu rộng được bao nhiêu? Thưa chiều sâu đó
quả là vô biên và không thể đo lường được. Tất nhiên, điều này ám
chỉ Bài Pháp xuất ra từ tâm trí tư tưởng của ngài. Và không thể nói
được rằng Ðạo sư (Ðức Phật) không thể kết thúc diễn giảng trong vòng
một trăm năm, một ngàn năm hoặc hàng vạn năm theo quy Luật ngài đã
thực hiện được về mặt tinh thần trong suốt một tuần lễ đó. Rồi sau
đó, Ðấng Như Lai (Tathagata) ngồi thiền giữa các vị chư thiên qui tụ
lại từ hàng ngàn, hàng vạn cõi tới, ngay tại bệ đá Pandukambala dưới
gốc cây Paricchattakau nơi cõi Tam Thập Tam Thiên (Tavatimsa), có
thân mẫu ngài chứng kiến, ngài đã giảng pháp định Luật đó từ chủ đề
này sang chủ đề khác[50]
với cả trăm, cả ngàn và hàng vạn phân đoạn khác nhau. Những bài chú
giải đó quả thật vô biên và không thể đếm xuể, và được tiến hành
liên tục trong ba tháng, với vận tốc ào ào như thác đổ, hoặc như
dòng nước trong bình tưới khi ta lộn ngược bình xuống. Bởi vì Bài
Pháp của Ðức Phật đang khi cám ơn đám đông đạo hữu vì lòng mến khách
của họ, nếu được trau chuốt đôi chút, có thể đạt đến chiều dài một
Bài Pháp ghi trong Trường Bộ Kinh
hay Trung bộ kinh (Majjhima)Và Bài Pháp ngài ban sau bữa ăn do đám
đông đạo hữu trai tăng ngài có thể dài bằng cả một Bài Pháp ghi
trong hai Bộ Kinh vĩ đại là Tương Ưng Bộ (Samyutta) và
Tăng Chi Bộ (Anguttara). Tại sao thế? Bởi vì Ðức Phật chẳng bận
tâm mấy tới việc duy trì cuộc sống, nên đôi môi của ngài khép lại,
miệng ngài hơi[51]
hé mở, lưỡi ngài mềm mại, giọng nói của ngài ngọt ngào, lời ngài nói
thanh thoát[52]
phát ra. Do đó, chỉ cần pháp trong một thời gian[53]
ngắn ngủi như vậy, cả bộ giáo pháp đã được ấn định; trong khi ngài
cần đến ba tháng để pháp, chắc hẳn là quy Luật đó đương nhiên phải
là vô biên và không thể đo lường được.
Quả
thật Trưởng Lão Ananda, một đệ tử Tam tạng, đã có kinh nghiệm rộng
rãi, có thể học hỏi, tường thuật và pháp trong khi vẫn đứng, một
ngàn năm trăm câu kệ hoặc giả có tới sáu mươi ngàn chân (feet) (thể
loại thơ) một cách dễ dàng như thể ngài đang thu lượm một vài loại
cây leo hay hái một vài bông hoa. Ðó là Bài Pháp duy nhất mà ngài
Ananda đã thực hiện. Không một ai, ngoại trừ Ðức Phật, có khả năng
pháp, hoặc phân tích được từng lời văn và cách thuyết pháp như
Trưởng Lão Ananda đã thực hiện được. Ngay cả một vị đệ tử với niềm
say mê đến như vậy, [16] với trí thông minh và lòng dũng cảm tuỵêt
vời đến thế, vẫn sẽ không có khả năng hoàn tất được công việc học
hỏi nghiên cứu những Bài Pháp đó của vị Ðạo sư (Ðức Phật) trong vòng
một ngàn năm, là công việc Ðức Phật chỉ thực hiện trong vòng ba
tháng theo như đã đề cập đến ở trên[54].
Nhưng
làm thế nào Ðấng Như Lai (Tathagata) có thể duy trì được cuộc sống
thể xác đang khi ngài pháp liên tục như vậy trong vòng ba tháng,
thân xác đó vốn là sản phẩm của tham lam và luôn phải tùy thuộc vào
của sắc vật thực? Thưa đó là nhờ sự bồi bổ thân xác bằng đồ ăn[55].
Thực tế mỗi khoảng khắc thời gian được Ðức Phật ghi dấu cẩn thận,
được chia ra và tuân thủ nghiêm ngặt. Ðức Phật cho hay, khi ngài
diễn giảng học thuyết nơi cõi con người, Ðức Thế Tôn đã tuân thủ
thời gian một cách thích hợp. Ngài nhận thấy lúc này là thời điểm đi
khất thực đây đó. Vì thế, ngài đã tự tạo ra đức Phật thứ hai theo
hình ảnh của chính ngài và do đó, ngài đã xác định: ‘Hãy để cho Vị
Phật đã được tạo ra này mặc áo cà sa, cầm bát khất thực, ăn nói và
nhận của bố thí cho mình với dáng vẻ của một vị chân tu. Hãy để cho
vị ấy pháp. Sau đó, Ðức Phật (đích thực) tự cầm lấy bát khất thực,
mặc áo cà sa của ngài và đi tới Hồ Anotatta. Chư thiên đưa cho ngài
một cây tăm lấy ra từ một cây leo Naga. Ngài đã sử dụng, tắm trong
nước hồ, và đứng trên đỉnh tảng đá Manosila. Ngài mặc nội y vào và
khoác vội chiếc áo cà sa đã được nhuộm kỹ, cầm bát khất thực làm
bằng đá xanh, do Bốn Vị Chư Thiên của cõi dục giới đưa cho ngài, và
ngài đi tới Uttarakuru. Từ đó, sau khi nhận của bố thí, ngài ngồi
thiền tại bờ Hồ Anotatta, ngài dùng bữa và trong nửa ngày còn lại,
ngài đi tới khu rừng gỗ đàn hương. Xá-lị-phất, Tướng Quân của giáo
pháp, đã đi đến đó, phục vụ Ðức Phật và ngồi bên cạnh ngài. Vị Ðạo
sư (Ðức Phật) đã dạy phương pháp cho chư vị này và phán rằng: ‘Hỡi
Xá-Lợi-Phất, ta đã chỉ ra rất nhiều học thuyết’. Do đó, người đệ tử
chính, người đã được phú cho Tuệ giác biết phân biệt, được ban cho
phương pháp, như thể Ðức Phật đứng trên bờ biển và đưa bàn tay mở
rộng của ngài chỉ ra đại dương. Ðức Thế Tôn cũng đã truyền đạt học
thuyết cho Trưởng Lão, hàng trăm, hàng ngàn phương pháp đã trở nên
rất rõ ràng. Vào thời điểm nào, sau khi đã nghỉ trưa, ngài đứng dậy
(cầm lấy bát khất thực và mặc áo cà sa) đi tới cõi Tam Thập Tam
Thiên (Tavatimsa) để diễn giải giáo pháp đây? Ngài đã ra đi vào
khoảng thời gian ngài sau khi đã chỉ vẽ giáo pháp cho các cư dân
Sāvatthī,
vì họ đã tề tựu đông đủ ở đó. Những vị (chư thiên) nào biết được
ngài ra đi (khỏi cõi con người phàm tục) hay đến cõi Tam Thập Tam
Thiên (Tavatimsa) sau khi đã chỉ dạy giáo pháp, và kẻ nào không biết
điều đó? Thưa rằng những chư thiên có sức mạnh to lớn hơn nhận biết
được điều đó; còn những chư thiên nào ít sức mạnh hơn thì chẳng hề
nhận ra điều đó. Tại sao những chư thiên này không hay biết gì về
điều đó? Thưa bởi vì không hề có sự khác biệt giữa Ðức Thế Tôn và
Ðức Phật đã được tạo ra, xét về mặt hào quang ngài phát ra, chất
giọng hoặc lời nói của hai Vị này.
Bây
giờ, sau khi học hỏi giáo pháp do Ðức Phật truyền dạy cho
Sāriputta
đã thuyết pháp lại cho năm trăm chư vị Tỳ-khưu cùng với các đệ tử
của Ngài nữa. Ðiều tiếp theo sau đây có liên quan đến tiền kiếp của
Ngài. [17] Ðược kể lại rằng họ đã tái sanh thành những con dơi dưới
thời Ðức Phật tổ Ca Diếp (Kassapa). Ðang đeo bám trên nóc căn hầm,
thì họ nghe giọng của hai vị Tỳ-khưu đang Kệ Vi Diệu Pháp (Abhidhamma),
và hiểu được một ý nghĩa tổng quát cho là theo luật, không thể phân
biệt được thiện pháp và điều bất thiện. Họ đã chết chỉ với một ý
tưởng chung chung như vậy được nghe thấy từ tiếng kệ của hai vị
Tỳ-khưu đó và được tái sanh nơi cõi các vị chư thiên. Họ cư ngụ tại
đó trong suốt quãng thời gian một vị Ðức Phật qua đi và một vị khác
xuất hiện, và trong khoảng thời gian đức Phật này, họ đã được tái
sanh thành người. Do được chứng kiến Phép song thông và được thuyết
phục, họ đã từ bỏ cõi phàm trần trước sự chứng kiến của vị Trưởng
Lão, ngài đã học giáo pháp do Ðức Phật diễn giảng cho, sau đó đã dạy
lại cho chư vịï quy Luật đó. Họ đã hiểu được bảy bộ luận tạng, đồng
thời với thời gian Ðức Phật kết thúc diễn giải Vi Diệu Pháp (Abhidhamma).
Thứ tự
nguyên bản tác phẩm Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) do chính
Xá-lợi-phất (Sāriputta)
phát minh ra; chính ngài cũng đã xác định rõ hàng loạt những phân
đoạn được đánh số trong Bộ Vị Trí này. Bằng cách này vị Trưởng Lão
đã sắp đặt hàng loạt số thứ tự để giúp cho nhiều người dễ dàng học
hỏi, nhớ được, nghiên cứu và giảng dạy giáo pháp mà không làm hại
đến học thuyết duy nhất đó. Như vậy trong trường hợp đó, phải chăng
Trưởng Lão đã là người đầu tiên hiểu được Bộ Vi Diệu Pháp (Abhidhamma)?
Thưa không, vì chính Ðức Thếâ Tôn là người đầu tiên hiểu được toàn
bộ Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Bởi vì khi ngồi thiền trên bệ
đá dưới Cây Bồ-đề, ngài đã thâm nhập được ý nghĩa Vi Diệu Pháp, đã
trở thành Vị Giác Ngộ và, khi ngồi thiền trên ngai suốt bảy ngày
trong một tư thế duy nhất, ngài đã cảm hứng cất lên bài kệ sau đây:
Nhìn
kìa! khi Pháp[56]
đích thực nổi lên nơi vị thánh.
người nhiệt tình, và đầy suy tư, mọi nghi kỵ liền tan biến ngay;
ngài biết rõ nhân duyên tạo ra kiếp tái sanh.
Nhìn
kìa! khi Pháp đích thực nổi lên nơi vị thánh
người nhiệt tình, và đầy suy tư, mọi nghi kỵ liền tan biến hết;
ngài biết cách huỷ hoại mọi nhân duyên.
Nhìn
kìa! Pháp đích thực nổi lên nơi vị thánh.
người nhiệt tình và đầy suy tư, mọi nghi kỵ liền tan biến hết;
như luồng sáng chiếu dọi cõi nhân sinh,
ngài tiêu diệt Ma-vương một đám đông.
như thái dương soi chiếu sáng bầu trời
Cảnh
tối tăm đêm tối[57]
ngài xua tan.
Ðây là những lời đầu tiên của Ðức Phật.
[18]
Những đệ tử nghiên cứu Bộ Pháp Cú (Dhammapada) lại cho rằng: những
bài kệ sau đây mới chính là lời đầu tiên Ðức Phật thốt lên sau khi
Ngài đạt đến giác ngộ:
lâu
nay quanh quẩn kiếp luân hồi,
ta tìm ta kiếm một người thợ xây.
tái sanh ấy nỗi đau muôn thuở.
Xuất hiện ôi! kỹ sư xây nhà cửa!
lâu dài thành quách chẳng cần xây.
ruôi mè,, đòn dong hủy tiêu hoàn toàn.
ta nay cảnh Niết Bàn[58]
nhắm tới,
ước mơ thèm khát tiêu tan[59]
ngàn đời.
Những
lời Ðức Phật phán khi ngài nhập Niết-bàn (Parinibbana), vào lúc Phật
nằm giữa hai gốc cây Sala là những lời cuối cùng của ngài:
‘Nầy
chư Tỳ-khưu, hãy lắng nghe đây, “Vạn vật hữu vi đều vô thường cả.”
hãy chăm chú[60]
lo phần giải thoát cho chính các ngươi mà thôi.
Chính
Ðức Phật đã diễn giải Các pháp thiện hướng dẫn đến Bất Tử, ngài đã
dạy dỗ các đệ tử của mình trong suốt bốn mươi lăm năm giữa hai biến
cố này, như thể ngài đang sửa soạn một vòng muôn mầu, hay đang chế
một chuỗi hột đá quí giá, tạo thành những lời dạy bảo vàng ngọc quí
giá cho đời sau. Tất cả những lời dạy dỗ đã được viết thành Tam
tạng, Ngũ Bộ Nikāyas,
chín Bộ Angas, và tám mươi tư ngàn Uẩn (Khandhas). Bằng cách nào
vậy? Theo Những gì ghi lại trong Tam tạng thì toàn bộ những lời của
Ðức Phật được chia thành ba phần đó: Luật tạng, Kinh tạng và Vi Diệu
Pháp (Abhidhamma). Ở đây, cả hai Biệt Giải thoát giới
(Patimokkhas) (tức những qui luật dành cho cả chư vị Tỳ-khưu và
Tỳ-khưu ni) và hai Bộ Bộ Phân tích (Vibhaṅgas)
(dành riêng cho chư vị Tỳ-khưu khác với các Tỳ-khưu ni) còn có hai
mưoi hai Kiền độ (Khandhakas), mười sáu Phụ Tùy (Parivara) tạo thành
tác phẩm Luật Tạng (Vinaya Pitaka.)
Một bộ
sưu tập gồm có Ba mươi tư kinh bắt đầu với Phạm Võng kinh
(Brahmajala) tạo nên Trường bộ kinh (Dīgha
Nikāya);
một bộ sưu tập với 152 kinh bắt đầu với kinh Mulapariyaya tạo
nên Trung Bộ kinh (Majjhima
Nikāya);
một bộ sưu tập khác gồm 7.762 kinh bắt đầu với kinh Oghatarana
tạo thành Tương Ưng Bộ kinh (Samyuttara
Nikāya);
lại còn có bộ sưu tập gồm 9.557 bộ bắt đầu với kinh
Cittapariyadana tạo nên Tăng Chi Bộ kinh (Anguttara
Nikāya).
15 bộ kinh[61]
khác nữa đó là: Tiểu Tụng Bộ Kinh (Khuddakapatha), Pháp cú kinh
(Dhammapada), Phật Tự Thuyết (Udana), Như thị thuyết Bộ
(Itivuttaka), Kinh Tập (Suttanipata), Thiên Cung sự (vimanavatthu),
Ngã Quỉ Sự (Petavatthu), Trưởng Lão Kệ (Theragatha) -Trưởng
Lão Ni Kệ (Therigatha), Kinh Bổn Sanh (Jataka), Niddesa, Vô ngại
giải đạo (Patisambhidā)
Thí Dụ Bộ (Apadana), Phật Tông (Buddhavamsa), và Hạnh Tạng Bộ
Cariyapitaka
tạo thành Tiểu Bộ kinh (Khuddaka
Nikāyas).
Tất cả các
bộ này đã tạo thành Tam tạng.
Tạng Vi
Diệu Pháp (Abhidhamma Pitaka) có bảy bộ bắt đầu bằng Bộ
Dhammasaṅganī.
[19]
Ở đây –
Bởi Luật tạng chỉ dạy giáo điều và nguyên lý,
điều phục được thân và khẩu
Chính do vậy mới có tên Luật Tạng.
Luật tạng được diễn giảng phổ quát
Trong đoạn kệ trên ta thấy
dùng từ các ‘nguyên lý’ ở đây có nghĩa là những phương pháp do Tứ
Thanh Tịnh Giới (four-fold Patimokkha) quy định, và bảy loại phạm
giới bắt đầu với tội bất cộng trụ (parajika) của
MaTīkā
và của (Vibhaṅga).
với các từ ‘Giới luật, có nghĩa là những phương pháp nơi các đạo
luật bổ sung, mang lại kết quả do tăng cường hay hoặc thư giãn trong
việc nắm giữ những qui định nguyên thuỷ tạo ra. Bộ này cũng giúp
điều hòa thân xác và miệng lưỡi bằng những kiềm chế khỏi những lỗi
phạm thuộc hai lãnh vực này, Do vậy, nhờ các nguyên tắc, những lời
giáo huấn và các quy định trong bộ này liên quan đến thân và khẩu,
nên bộ này được gọi là Luật tạng (Vinaya).
Vì thế,
Bộ này được coi như giúp ta dễ dàng nghiên cứu học hỏi các định
nghĩa của các từ:
Bởi Luật tạng chỉ dạy giáo
điều và nguyên lý,
điều phục được thân và khẩu
Chính do vậy mới có tên Luật Tạng.
Luật tạng được diễn giảng phổ quát
Hơn nữa:
Kinh tạng đã trình bày, diễn
giải và đem lại kết quả,
Còn tạo ra rồi bảo vệ thiện pháp.
một chuẩn mực vượt trên vượt trên bậc trí
vậy kinh tạng (Sutta) đích thực là tên gọi.
Bởi vì
kinh tạng (sutta) vạch ra thiện pháp là gì cho chính bản thân mỗi
người và cho cả tha nhân nữa. Kinh tạng (sutta) cũng được diễn tả
một cách chính xác để phù hợp với những ước vọng của độc giả. Người
ta nói rằng bộ này mang lại kết quả là Thiện pháp, giống như mùa
màng mang lại hoa quả; bộ này sản sinh ra thiện pháp, giống như con
bò cái tạo ra sữa; bộ này còn bao bọc và phòng vệ thiện pháp. Bộ này
là thước đo cho trí tuệ, tương tự như cái thước chuẩn của bác thợ
mộc vậy. Giống như những bông hoa được đính lại thành từng chuỗi với
nhau sẽ không thể rơi rụng, cũng không bị tàn héo, cũng vậy, khi
thiện pháp được kết hợp với kinh tạng (sutta) này, thiện pháp đó sẽ
không bị tiêu diệt. Do đó, người ta nói rằng kinh tạng (sutta) dễ
dàng cho việc nghiên cứu định nghĩa các từ ngữ vậy:
Kinh
tạng đã trình bày, diễn giải và đem lại kết quả,
Còn tạo ra rồi bảo vệ thiện pháp.
một chuẩn mực vượt trên mọi trí tuệ
vậy kinh tạng (sutta) đích thực là tên gọi.
Ðịnh nghĩa về từ
Abhidhamma - Vi Diệu Pháp đã được giải thích. Nhưng sau đây là
một bộ khác:
Quyển sách chỉ rỏ nguyên nhân sanh khổ
những thuộc tính đặc sắc và đáng trọng biết bao.
phân biệt rõ, có giá trị vượt trội,
lấy
Vi Diệu Pháp làm tên cho bộ này.
[20]
Như đã trình bày ngay từ đầu, do tiếp đầu ngữ ‘abhi’ bao gồm
sự phát triển, những thuộc tính riêng biệt, sự kính trọng, phân biệt
rõ ràng và có giá trị trội vượt. Do đó, trong câu: ‘Chư vị Tỳ-khưu,
thầy cảm nghiệm được đau đớn khủng khiếp đang gia tăng trong thân
xác thầy[62]”.
Những đau đớn gia tăng nơi tôi’, câu này diễn tả sự phát triển.
Trong câu: ‘Ðó là những đêm tối khác thường[63]
mang những đặc điểm rõ rệt[64]’,
câu này diễn tả những thuộc tính xác thực. Trong câu: ‘Vua các vua[65],
Ðấng Lãnh tụ và nhà chinh phục chúng sanh”, câu này diễn tả sự kính
trọng. Trong câu: ‘Ngài có khả năng quán triệt Vi Diệu Pháp và Tạng[66]
Luật’ câu này diễn tả sự phân biệt và có nghĩa là: ‘Ngài có đủ khả
năng quán triệt Pháp và Luật, nhưng không lẫn lộn hai pháp này với
nhau. Trong các đoạn văn: ‘Với nét đẹp vượt trội[67]’,
những đoạn này diễn tả về giá trị. Trong câu: ‘Ngài tạo ra những
điều kiện để được tái sanh nơi cõi Sắc Giới (Rupa-world)[68];
ngài sống nơi cõi phàm tục này bằng cách phổ biến tư tưởng tâm bi[69]
yêu thương’, ngài ám chỉ những sinh linh có thể tấn tới và phát
triển được. Trong những câu: ‘cảnh sắc, cảnh thinh’ đây muốn ám chỉ
những sự vật đó có những thuộc tính hết sức cá biệt, bởi vì những
vật đó đã được xác định hẳn hoi như là những đối tượng cụ thể (cảnh
sắc...).Và ngài ám chỉ những sự vật đáng được kính trọng trong các
câu sau: ‘Những đối tượng gắn liền với chư vị đệ tử, những đối tượng
gắn liền với những người lão luyện và những đối tượng siêu thế”
Trong những câu: ‘Ðây là xúc giác, kia là thọ v.v...’ ngài ám chỉ
những sinh linh có thể phân biệt được về mặt bản chất. Và ngài ám
chỉ những sự vật có giá trị vượt trội trong đoạn như: ‘Các pháp siêu
thế, không thể đo lường được, không thể so sánh được’. Do đó, người
ta nói rằng bộ này giúp ta dễ dàng nghiên cứu định nghĩa về từ ngữ
đa dạng trong đó.
Do
bởi bộ này cho thấy vạn vật đều trải qua phát triển .v.v...
Thuật ngữ ‘Tạng’ có ý nghĩa tổng quát như sau:
Từ Tạng (pitaka) mang ý nghĩa thật uyên bác [*]
là ‘việc học’ và ‘cái giỏ’ càn khôn.
Chỉ một từ mà hiểu được toàn bộ.
Kinh Tạng, Luật Tạng và Vi Diệu Pháp.
[*]
Nghĩa là chỉ có một từ Pitaka ta có thể hiểu ba bộ trong đó có:
Sutta, Vinaya và Abhidhamma.
Từ
‘Tạng’ được sử dụng theo nghĩa ‘nghiên cứu, học hỏi’ như trong câu:
‘Chúng ta đừng đánh giá các học thuyết thông qua việc thành thạo Tam
Tạng’.
Và từ
này được sử dụng theo nghĩa ‘cái giỏ’ trong câu: ‘Giống như một
người phải cầm cái xẻng và cái giỏ rồi ra đi....’
Vì thế:
Từ
‘Tam Tạng’, mang ý nghĩa thật uyên bác
là ‘việc học’ và ‘cái giỏ’ càn khôn.
Chỉ một từ mà hiểu được toàn bộ.
Kinh tạng, Luật tạng và cả Vi Diệu Pháp.
Như vậy
từ ‘Luật tạng (Vinaya)’ tạo thành sự phối hợp với ‘Tạng’ tạo thành
hai ý nghĩa trong cùng một từ ghép đó là ‘Tam Tạng’ hay đơn giản là
‘Luật Tạng.’ Nhờ đặc tính đồng thời vừa là ‘học hỏi’ và ‘cái giỏ’ từ
này còn mang ý nghĩa là nghiên cứu và chọn lọc. Cũng tương tự như
vậy đối với ‘kinh tạng [21] và ‘Tạng Vi Diệu Pháp’.Và do đó, cần
phải am hiểu hai từ này, để một lần nữa ta có thể hiểu được những
khía cạnh khác nữa trong Tam Tạng.
Khi
cần đến các Bộ vừa được kể,
có nghĩa là: bài giảng, giáo lý và pháp....
Những giáo pháp vô cùng xâu xa và phong phú.
khơi dạy tình thương miệt mài và thanh khiết.
Mỗi giáo pháp tạo nỗi đam mêvẫn chứa đựng.
để nghiên cứu Tam Tạng hầu chiến thắng
khi sa ngã, hãy cứ nhắc lại điều trên.
Ðể giải
thích và làm sáng tỏ những điều nêu trên, ta cần bổ sung thêm như
sau: Tam tạng được đề cập đến một cách riêng rẽ như là những lời
pháp đầy quyền uy, về triết lý phổ quát và về những chân đếcõi vô
sắc; hay là những hướng dẫn cụ thể trong cách ứng dụng thiện và bất
thiện, tùy thuộc vào từng hoàn cảnh cụ thể và cả những trạng thái
riêng tư; hay còn nữa, như những Bài Pháp dạy những điều kiềm chế
tầm thường hay quan trọng trong cuộc sống. Mỗi Tạng khuyên ta bác bỏ
những quan điểm tà kiến và phân biệt rạch ròi giữa những gì thuộc
Danh và Sắc.
Từ
những điểm vừa nêu trên, ta có thể nói rằng Luật-Tạng, đã được chính
Ðức Thế Tôn, đầy quyền uy và xứng được kính trọng, đã diễn giải một
cách tổng quát cho chúng ta; Kinh tạng (sutta) là một Bài Pháp của
Ðức Thế Tôn, người có bề dầy kinh nghiệm về thiện pháp phổ quát, đã
pháp một cách tổng quát những điều liên quan đến thiện pháp phổ quát
đó, thế nên những Bài Pháp của ngài cũng đề cập đến thiện pháp phổ
thông; và Tạng Vi Diệu Pháp, cũng đã được Ðức Thế Tôn, đấng giác ngộ
nói về những chân đế tối thượng, pháp một cách tổng quát về những
liên quan đến ý nghĩa tối thượng của hai bộ này, thế nên cách pháp
của ngài cũng được gọi là cách pháp đề cập đến những chân đế tối
thượng.
Cũng
vậy, trong bộ đầu tiên, tức là Bộ Luật (vinaya), vạch ra cho những
ai vi phạm những lỗi lầm trầm trọng, tùy theo những hành vi sai lầm
tương ứng của họ, Bộ Luật cũng được gọi là lời chỉ dẫn được ban ra
cho chúng ta liên quan đến việc này; bộ thứ hai, tức là Kinh Tạng
(sutta pitaka), thích ứng với những ước muốn khác nhau, những khuynh
hướng tiềm tàng, những nét đặc trưng, những cách giải quyết, và được
gọi là lời chỉ dẫn phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể; và bộ thứ ba,
tức là Bộ Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) đề cập dựa trên các trạng
thái những người tưởng tượng về bản thân mình trong ý nghĩa tối
thượng theo thứ tự nơi các sự vật, bằng cách nói rằng: ‘Ðây là tôi;
điều kia là của tôi’, được gọi là lời chỉ dẫn được ban ra tương ứng
với các trạng thái.
Tương
tự như vậy, bộ đầu tiên được gọi là Pháp về kiềm chế và tự chủ, bởi
vì trong đó có những Bài Pháp nói về những việc kiềm chế quan trọng
hay tầm thường, tương phản với những vi phạm . ‘Kiềm chế và tự chủ’
có nghĩa là việc kiềm chế lớn hay nhỏ; giống như những hành vi quan
trọng hay tầm thường, những kết quả to lớn hay nhỏ nhoi[70].
Bộ thứ hai được gọi là Bài Pháp về bác bỏ những quan điểm tà kiến,
bởi vì trong đó mở ra thành 62 tà kiến[71].
Bộ thứ ba được gọi là Bài Pháp về sự phân biệt giữa Danh và sắc, bởi
vì trong đó có Bài Pháp về sự phân biệt trong mối tương quan đạo đức
v.v...
Và
trong cả Tam Tạng, cần nên hiểu về cách tu luyện, về giải thoát
nhanh chóng và bốn tính thâm sâu đó là: nền thiện pháp được đề cập
đến một cách đặc biệt trong Luật-Tạng chính là cách tu luyện duy
nhất về mặt đức hạnh; Ðịnh tâm được đề cập đến một cách đặc biệt
trong Kinh Tạng chính là cách tu luyện duy nhất xét về mặt tu luyện
tâm lý cao hơn; là triết lý được đề cập đến một cách đặc biệt trong
Tạng Vi Diệu Pháp chính là cách tu luyện duy nhất cho các Tuệ giác
cao hơn hoặc các Tuệ giác cõi vô sắc.[22] Trong Luật- Tạng, việc
giải thoát khỏi phạm vi do Phiền não gây ra thật đáng kể, bởi vì
thiện pháp thì đối kháng lại với những vi phạm; trong Kinh tạng,
việc giải thoát khỏi sự tàn bạo do những Phiền não gây ra thật đáng
kể, bởi vì sự tập trung tư tưởng luôn đối nghịch với sự tàn bạo kiểu
như vậy; trong Tạng Vi Diệu Pháp, việc giải thoát khỏi những khuynh
hướng tiềm ẩn thật là đáng kể, bởi vì hiểu biết thì dứt khoát đối
kháng với những khuynh hướng như vậy. Trong tạng đầu tiên, có một sự
giải thoát tạm thời khỏi những Phiền não (thông qua nhiều yếu tố
thiện pháp khác nhau); trong những bộ khác, nhờ Chính Ðạo, việc giải
thoát các yếu tố này thuộc về bản chất của việc loại bỏ và diệt trừ.
Trong tạng đầu tiên việc giải thoát chính là thoát khỏi những ô
nhiễm do hạnh kiểm xấu đem lại; trong những bộ khác, việc giải thoát
này lại chính là thoát khỏi những Phiền não do thèm khát và tà kiếm
gây ra. Và trong mỗi bộ đó, có bốn điều sâu sắc rõ ràng nên được
hiểu cặn kẽ đó là: giáo lý, ý nghĩa, cách trình bày, và hiểu biết
qua trực giác.
Ở đây,
‘Giáo pháp (Dhamma) có nghĩa là kinh văn; ‘ý nghĩa’ (attha)
là ý nghĩa của kinh văn; ‘chú giải’ (desana) có nghĩa là pháp
nguyên văn của kinh văn đã có hiệu lực trong tâm trí; và ‘thấm
nhuần’ (pativedha) tức là sự thông hiểu kinh văn và ý nghĩa
của nó đúng theo chân lý. Và trong cả Tam tạng này, quả thật là khó
khăn đối với người thiếu hiểu biết để nắm bắt và nhận thức thấu đáo
hoặc có được cơ sở vững chắc về bốn vấn đề này – y hệt như khó khăn
biết mấy đối với những con thỏ rừng hoặc những tạo vật nhỏ bé khác
trong việc thâm nhập hoặc có được một chỗ đứng trong đại dương bao
la – chính vì thế người ta cho rằng điều này thật là thâm sâu. Do
đó, trong mỗi tạng, chúng ta nên hiểu rõ[72]
tính thâm sâu của bốn vấn đề này. Một lần nữa: ‘Học thuyết’ có nghĩa
là điều kiện-căn bản, bởi vì ta biết[73]
rằng ‘Tuệ giác về căn nguyên hoặc nhân duyên là sự phân tích học
thuyết
[74]
đó’. ‘Ý nghĩa’ là kết quả của một nhân duyên, bởi vì ta biết rằng
hiểu biết kết quả của nhân duyên chính là sự phân tích ý nghĩa vậy.
‘Chú giải’ có nghĩa là lời tuyên bố* theo ý nghĩa nguyên văn từ ngữ
của học thuyết đó, hoặc có nghĩa là một Bài Pháp được thực hiện theo
phương cách liên tiếp chính xác hoặc theo thứ tự trái ngược, cách
trừu tượng hoặc theo từng chi tiết v.v...
‘Thấm
nhuần[75]”
có nghĩa là nhận thức[76]
thấu đáo. Ðiều này vừa mang tính trần tục, vừa mang tính siêu thế.
Nhờ vào đối tượng và không có sự lẫn lộn, ta thấm nhuần vào các căn
nguyên tùy theo những kết quả của chúng đem lại, hay thấm nhuần vào
những kết quả tùy thuộc các căn nguyên của nó, thấm nhuần vào các
khái niệm tùy theo hoàn cảnh đưa đến các ý niệm đó. Ðiều này cũng
bao gồm tính cách không thay đổi được nơi những đặc điểm riêng của
đối tượng này hoặc đối tượng kia (như Ngũ Uẩn và Niết Bàn), được
diễn giải trong tạng này hoặc Tam tạng[77]
kia. Ðến đây ý nghĩa của những nhân duyên như vậy và hậu quả của
những sự vật được diễn giải dưới với nhiều khía cạnh khác nhau trong
Tam tạng đã được trình bày trước hiểu biết của người nghe. Tiếp theo
sau đó còn có việc chú giải làm sáng tỏ ý nghĩa các sự vật đã được
diễn giải dưới các khía cạnh đó; thế rồi trực giác xuất hiện được
gọi là hiểu biết nhất định về các sự vật được pháp trong đó, hoặc
bản chất không thể thay đổi nơi những đặc điểm riêng của các sự vật
đó. Toàn bộ những điều này thật không dễ dàng đối với những người ít
hiểu biết, họ không có được nhiều giá trị tích lũy, để thấu hiểu
hoặc đạt được cơ sở vững chắn, như đã nói đến ở trên. Do vậy, câu kệ
[23] này sẽ giải thích cặn kẽ hiện trạng này:
Nên diễn giải thấu đáo mỗi
khi cần,
Bài giảng, giáo lý, chân đế,
Chiều sâu giáo pháp chính là tâm niệm
Tình thương trong sáng là giáo điều.
Về điểm
này cũng cần xem xét đến ba cách nghiên cứu Tam tạng: Hãy nghiên cứu
theo như cách chúng ta bắt một con rắn vậy, hãy nghiên cứu nhằm mục
đích để được giải thoát, và hãy nghiên cứu giống như công việc của
người thủ qũy. Trong số những cách thức nghiên cứu này, việc nghiên
cứu có được chỉ nhằm mục tiêu gây phiền hà đến cho người khác[78]
v.v... thì công việc đó giống hệt như việc bắt rắn vậy. Liên quan
đến vấn đề này chúng ta nghe nói: “Nầy chư Tỳ-khưu, tương tự như một
người muốn bắt một con rắn, người đó liền ra ngoài đồng để tìm bắt.
Khi người đó vừa nhìn thấy một con rắn to, hắn liền túm lấy thân con
rắn, hoặc giả lại túm lấy đuôi rắn, Ngay tức khắc, rắn ta quay lại
mổ ngay vào bàn tay, cánh tay, hoặc bất cứ bộ phận nào trên thân thể
anh ta lớn cũng như nhỏ. Vì lý do đó, anh sẽ bị chết hoặc giả phải
chịu đau đớn cho đến chết. Tại sao vậy? Nầy chư Tỳ-khưu, chính là do
người đó không biết cách bắt rắn. Thế nên, này chư vị Tỳ-khưu, cũng
tương tự như vậy, trong đạo giáo chúng ta, có một số người chẳng làm
lợi cho ai, họ nghiên cứu nhiều ngành Phật Học khác nhau không đúng
cách. Ðang khi tiến hành nghiên cứu Phật học họ lại không chú tâm
cách thông minh đến ý nghĩa các kinh văn đó. Và cả ý nghĩa kinh văn
họ cũng không am hiểu một cách thấu đáo, những học thuyết họ lãnh
hội được không đem lại cho họ bất kỳ tri thức nào. Họ chỉ nghiên cứu
giáo pháp nhằm mục tiêu gây phiền hà cho thiên hạ hay muốn thoát
khỏi bị phê phán hay làm trò cười cho thiên hạ*. Ðối với bất kỳ
thiện pháp nào người có lòng ngay thẳng nghiên cứu Phật học, những
người chẳng làm lợi cho ai không cảm nghiệm được thiện pháp đó; và
những học thuyết họ lãnh hội một cách cẩu thả như vậy đem cho họ
nhiều thất lợi và đau khổ trong một thời gian dài. Vì sao vậy? Nầy
chư Tỳ-khưu, do bởi họ lãnh hội[79]
một cách cẩu thả như vậy. Nhưng việc nghiên cứu đó, được những người
ước ao chu tất một khối lượng giáo pháp lãnh hội một cách đúng đắn
v.v.... và không nhằm mục đích gây phiền hà cho thiên hạ, và chỉ
nhằm mục tiêu giải thoát, ta có thể nói rằng: ‘Những học thuyết nào
được lãnh hội một cách đúng đắn như vậy sẽ đem lại lợi ích và hạnh
phúc lâu dài.’ Vì sao vậy? Hỡi chư vị Tỳ-khưu, chính do việc lãnh
hội[80]
đúng đắn như vậy mà ra. Cuối cùng, thánh nhân, là người đã lãnh hội
được Tuệ giác hoàn hảo về ngũ uẩn, đã loại bỏ được những Phiền não,
tu luyện được Ðạo, [24] thâm nhập vào thánh Quả A-la-hán, nhận chân
được diệt đế, và dập tắt những lậu hoặc. Họ chỉ học hỏi nghiên cứu
nhằm mục tiêu bảo vệ truyền thống, và để gìn giữ liên tục nền Phật
học. Ðây chính là cách nghiên cứu của người Chủ Kho Bạc (người quản
lý tốt).
Chư vị
Tỳ-khưu nào, đã tu luyện đúng dắn Luật tạng, bằng cách chu toàn đầy
đủ các Giáo điều, sẽ lãnh hội được ba loại Minh, như đã diễn giải
đầy đủ ở trên. Chư vị Tỳ-khưu nào có Tuệ giác hoàn chỉnh về Kinh
tạng, do đạt được tâm định (concentration) sẽ thành tựu lục thông,
như đã được diễn giải đầy đủ ở trên. Chư vị Tỳ-khưu nào, đã chú tâm
nghiên cứu Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), bằng cách đạt đến được
thành tích am hiểu tứ vô ngại giải, như đã diễn giải đầy đủ ở trên.
Như vậy Chư vị Tỳ-khưu này đã tu luyện đúng đắn Tam tạng, đến đúng
thời điểm thuận tiện sẽ thành tựu được ba tuệ giác, lục thông và bốn
phép phân tích. Nhưng Chư vị Tỳ-khưu nào lại tu luyện Luật tạng
(Vinaya) một cách kém cỏi, cho rằng mình không sai phạm trong các
cảm giác cấm kỵ vì loại xúc giác này giống ý hệt như đụng chạm đến
chăn mền quần áo vậy. v.v... tạo ra cảm khoái và Ðức Phật cũng không
cấm đoán. Và có lời nói[81]
rằng: ‘Tôi am tường học thuyết Ðức Thế Tôn đã truyền dạy, cụ thể là,
có một số điều gây tác hại cho việc tiến bộ, nhưng chúng không thể
gây hại cho người sử dụng đến cách này cách khác.” Hậu quả là có chư
vị Tỳ-khưu phạm phải những điều bất thiện đó. đó là Chư vị Tỳ-khưu
nào tu luyện Kinh tạng một cách kém cỏi, có tư tưởng lệch lạc, không
hiểu được ý nghĩa những đoạn kinh văn như: “Nầy chư Tỳ-khưu, như đã
nói đến ở trên, có bốn hạng người[82]
trên cõi đời này ‘Do những ý tưởng sai lầm[83]
của mình, người này tố cáo chúng ta, tự làm hại chính bản thân và
phạm nhiều khuyết điểm’. Hậu quả là vị Tỳ-khưu đó có những quan điểm
sai trái”. Tỳ-khưu nào tu luyện Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) một
cách kém cỏi, khiến cho tâm trí vượt xa những tư tưởng trừu tượng
cõi vô sắc và chỉ suy nghĩ đến những điều không tưởng. Hậu quả là vị
Tỳ-khưu đó bị lọan tâm. Bởi vì có lời nói rằng: ‘Nầy chư Tỳ-khưu, có
bốn điều không thể tưởng tượng được, là những điều chẳng nên nghĩ
đến. Tính ngu xuẩn hay bực bội sẽ là một phần người đó thực hiện’.
Chính vì vậy chư vị Tỳ-khưu nào được tu luyện Tam Tạng một cách kém
cỏi thì sớm muộn gì cũng gặp đủ thứ thất bại ê chề chẳng hạn như
theo đuổi những nguyên lý bất thiện, tà kiến và những xáo trộn tâm
thức.
Thậm chí có nội dung câu kệ
như sau:
Mỗi
chúng ta đạt được gì
nghiên cứu tam tạng, làm sao có thể thành đạt
Ta thất bại ở đâu, hãy giải thích cả những điều này.’
Như vậy
nhờ thu thập Tuệ giác về Kinh tạng bằng nhiều cách khác nhau, hiểu
biết những bộ bằng nhiều cách thức khác nhau, chúng ta nhận ra rằng
Tam tạng chính là lời của Ðức Phật vậy.
[25]
Năm bộ kinh Pāli,
được phân nhóm lại như thế nào? Toàn bộ những lời dạy của Ðức Phật
được chia thành Trường bộ kinh,(Dīgha
Nikāya) Trung bộ
kinh (Majjhima Nikāya),
Tương Ưng bộ kinh (Samyutta),
Tăng Chi Bộ (Anguttara)
và Tiểu Bộ Kinh (KhuddakaNikāya).
Trường
bộ kinh (Dīgha Nikāya)
là Bộ nào trong số những bộ vừa kể trên? Thưa là bộ sưu tập gồm ba
mươi bốn kinh bắt đầu với Phạm Võng Bộ (Brhamajala), tạo nên
3 phân đoạn.
Ba
mươi bốn Kinh gộp trong ba chương-
Bộ đầu, bộ dài nhất tên là Trường bộ kinh
(Dīgha
Nikāya)
Nhưng
tại sao lại gọi là Trường bộ kinh
(Dīgha Nikāya)?
Thưa bởi vì đó là một Bộ kinh rất dài, nên được gọi là
Nikāya.
‘Nầy chư Tỳ-khưu, ta chưa từng thấy bất kỳ một nhóm riêng
lẻ nào lại đa dạng như một nhóm súc sanh[84];
‘nơi cư ngụ của các vị hoàng tử Ponika, và các vị hoàng tử
Cikkhalika[85]’.
Ðây là những ví dụ cho thấy ý nghĩa của thuật ngữ này theo hai nghĩa
tôn giáo và Phàm tục. Do đó, trong những Bộ Nikāya
còn lại, định nghĩa này cũng nên được hiểu như vậy.
Trung bộ kinh (Majjhima Nikāya)
là bộ nào?
Thưa là bộ sưu tập gồm một trăm năm mươi hai kinh có độ dài trung
bình bắt đầu là kinh Mulapariyaya, gộp lại thành 15 phân đoạn: Trung
bộ kinh (Majjhima Nikāya)
gồm 15 chương, gồm bảy cảnh và mười hai Kinh.
Tương Ưng bộ kinh (Samyutta Nikāya)
là bộ nào?
Thưa là bộ sưu tập gồm bảy ngàn bảy trăm sáu mươi hai kinh bắt đầu
với kinh Oghatarana, và được xắp loại giống như
Devatasamyutta v.v...
Tương
Ưng bộ kinh (Samyutta Nikāya)
gồm: Bảy ngàn bảy trăn sáu mươi hai Kinh.
Tăng
Chi Bộ (Anguttara Nikāya)
là bộ nào?
Thưa là bộ sưu tập gồm chín ngàn năm trăm năm mươi bảy kinh bắt đầu
với kinh Cittapariyadana, được sắp xếp thành từng phần liên
tiếp nhau.
Chín
ngàn năm trăm năm mươi bảy kinh,
là con số Tăng Chi Bộ Kinh.
[26]
Tiểu Bộ[86]
(Khuddhaka Nikāya)
là Bộ nào?
Thưa là toàn bộ Luật Tạng, Vi Diệu Pháp Tạng và 15 phân đoạn như đã
được vạch ra ở trên.- bắt đầu với Bộ Tiểu Tụng(Khuddakapatha),
Pháp cú kinh (Dhammapada), toàn bộ những lời còn lại của Ðức
Phật, ngoại trừ Bốn Bộ Nikāya.
Ngoại trừ Bộ Dīgha,
và ba bộ Nikāya
lời còn lại của Ðức Phật là gộp trong Tiểu
Bộ.
Như vậy Nikāya có năm Bộ cả thảy.
‘Chín
phần’ gồm những phần nào vậy? Thưa đó là toàn bộ khế Kinh (sutta),
Ứng tụng (Geyya), Ký Thuyết (Veyyakarana), phúng tụng
(Gatha), Tự Thuyết (Udana), Phật thuyết như vậy
(Itivuttaka), Bản Sinh (Jataka), Vị tằng hữu (Abbhuta),
Phương Quảng (Vedalla)[87].
Về điểm
này, hai Kinh- Bộ Phân tích
(Vibhaṅga), Bộ Niddesa,
Kiền Ðộ Bộ (Khandhakas) và Phụ Tùy (Parivara), Bộ Mangalasutta, Bộ
Ratamasutta, Nalakasutta, Tuvatakasutta
thuộc các Phân Ðoạn Bộ
(Sutta-Nipata), và bất kỳ Lời Nói nào khác của Ðấng Như Lai Phật Tổ
mang tên khế kinh (Sutta) nên được coi như là Bộ. Tất cả các Bộ ở
thể kệ (verses) nên được hiểu là Ứng tụng (Geyya). Ðặc biệt, tất cả
các chương viết ở thể kệ trong Tương Ưng bộ kinh
(Samyutta-Nikāya)
tạo nên Ứng tụng (Geyya). Toàn bộ Tạng Vi Diệu Pháp, các Kinh
không ở thể kệ và bất cứ Lời nào khác của Ðức Phật bao gồm trong tám
phần nên được hiểu như là Ký Thuyết Bộ (Veyyakarana)[88],
hoặc là phần chú giải. Pháp cú kinh, Trưởng Lão Kệ, Trưởng
Lão Ni Kệ, đó là những đoạn nằm trong các Phân đoạn Bộ
(Sutta-Nipata) không được gọi là Khế kinh, và toàn bộ câu kệ đều
nên được ghi nhận như là phụng tụng hay Kệ. Có Tám mươi hai
khế kinh ở thể kệ lại diễn tả Tuệ giác và niềm vui nên được hiểu đó
là Kinh Phật Tự Thuyết (Udana)
Một
trăm mười hai Kinh đã được giảng bắt đầu theo cách này: ‘Chính vì
vậy Ðức Thế Tôn[89]
phán rằng,’Do đó, theo lời phán dạy của Ðức Thế Tôn v. v. ., nên
được hiểu là Như Thị Thuyết Bộ (tức là ‘Ðức Thế Tôn phán
rằng’). Có năm trăm năm mươi câu chuyện kể về việc tái sanh
(Birth-Stories) kể về tái sanh bắt đầu với bộ Apannaka tạo
thành các Kinh Bổn Sanh (Jataka). Tất cả các bộ Kinh liên quan đến
những điều tuyệt vời và kỳ diệu đã được kể lại theo cách: ‘Nầy chư
Tỳ-khưu, có bốn điều tuyệt vời và kỳ diệu nơi tôn giả A-nan-đa
[90]’,
nên được hiểu như là (Vị tằng hữu). Tất cả các Kinh dưới hình
thức câu hỏi diễn tả việc đạt được niềm vui và hiểu biết lập đi lập
lại, như các Bộ: (Cullavedala) , (Mahavedala), (Sammāditthi), Sakkapanha, Sankhārabhajania, Mahapunnama[91]
v.v... nên được hiểu như là phương quảng. Ðó là toàn bộ chín phần
trong Kinh tạng.
Còn Tám
mươi bốn ngàn Pháp môn (đơn vị = Units) trong kinh văn là gì vậy?
[27]
Ðức Thế Tôn dạy, có Tám mươi hai ngàn Pháp môn,
Hai ngàn pháp môn do ngài Ngài Xá-lợi-phất
(Sāriputta)
Cả thảy Tôi học biết được Tám mươi bốn ngàn pháp môn
[92].
Như vậy
toàn bộ Lời Ðức Phật bao gồm Tám mươi bốn ngàn Pháp môn (tức đơn vị)
viết thành văn. Trong số này, bộ chứa đựng một chủ đề[93]
tạo thành một pháp (hay một đơn vị) trong kinh văn. Nơi nào có bộ
gồm hơn một chủ đề, thì những Pháp môn (đơn vị) trong kinh văn bộ
này được xác định bằng số lượng những chủ đề chứa trong đó. Trong
các câu kệ, mỗi câu gồm có những thắc mắc hoặc câu hỏi cũng tại
thành một đơn vị (pháp), mỗi câu trả lời lại tạo ra pháp khác. Trong
Bộ Vi Diệu Pháp, mỗi cách phân loại theo bộ ba hoặc bộ đôi, cũng như
mỗi cách phân loại theo khoảng thời gian biết rõ, đều tạo thành một
đơn vị trong kinh văn. Trong Luật tạng (Vinaya), cũng có các chủ đề,
bản đề mục, cách phân loại có giới hạn, những vi phạm, trong trắng
vô tội, các lỗi phạm tạm thời, và cách phân chia theo khổ thơ ba
câu, trong đó, mỗi phần nên được hiểu như là một đơn vị trong kinh
văn. Ðây là cách phân chia Giáo lý của Ðức Phật thành Tám mươi bốn
ngàn đơn vị (pháp) trong kinh văn.
Như vậy
vào thời điểm trùng tuyên Phật ngôn tại Ðại Hội Thứ Nhất (Rehearsal
at the First Council) có năm trăm vị Tỳ-khưu tham dự. Ðây là một Hội
Nghị tập họp tự kiểm điểm, chư vị đó duyệt lại (toàn bộ Pháp và
Luật) dưới sự chủ trì của Ngài Ca-Diếp (Mahakassapa), sau khi đã xác
định trước: ‘[Ðây là giáo lý của Ðức Phật, đây là Luật tạng (Vinaya)[94]],
khẳng định chắc chắn đây là những lời đầu tiên, là những lời ở
khoảng giữa, và là những lời cuối cùng của Ðức Phật; đây là bộ Tạng
Luật- đây là tạng kinh, đây là Tạng Vi Diệu Pháp, đây là Trường bộ
kinh (Dīgha Nikāya)....
Tiểu Bộ (Khuddaka Nikāya);
đây là chín chi phần, có nghĩa là toàn bộ các Kinh tạng v.v...; Ðây
là tám mươi bốn ngàn Pháp môn (đơn vị) được ghi lại thành kinh văn’.
Và không chỉ có bộ này: những gì cách thức văn chương khác xuất hiện
trong Tam tạng, chẳng hạn như các danh sách đề mục (uddana),
các chương (vagga), những phần đọc lướt (peyyala),
những đoạn theo đề tài đơn, đôi (nipata) v.v..., những nhóm (samyutta),
những nhóm 50 (pannasa) – tất cả bộ này đã được phân loại,
duyệt lại trong vòng bảy tháng. Và đến phần kết thúc cuộc kết tập
Tam tạng, cả trái đất rộng lớn đã rung chuyển (lên tới những đường
ranh giới của mặt nước) một cách dữ dội, lập đi lập lại, với một
chấn động theo chiều thẳng đứng ở khắp mọi nơi; và những điều kỳ
diệu khác đã diễn ra, như thể những sự kiện đó một chúc mừng với cảm
giác vui mừng phấn khởi trước suy nghĩ: ‘Nhờ Trưởng Lão Ðại Ca-Diếp
(Mahakassapa), giáo pháp của Ðức Phật Thập Toàn đã được tồn tại kéo
dài trong một thời kỳ là năm ngàn năm’.
Như vậy
kết tập Tam tạng tại Ðại Hội thì Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) là
một tạng căn cứ vào các phân loại -Tam Tạng, Tiểu Bộ (Khuddaka-Nikāya)
theo cách phân biệt Nikāya
[28] Ký Thuyết Bộ (Veyyakarana) theo cách phân biệt-từng Phần và tạo
thành hai ngàn hoặc ba ngàn Pháp môn theo kinh văn phân loại pháp
môn như trong kinh văn. Một lần kia, có một vị Tỳ-khưu, đã nghiên
cứu kỹ lưỡng Bộ Vi Diệu Pháp, đang ngồi thiền giữa chư vị Tỳ-khưu
khác, ngài biết rất rõ tất cả năm
Nikāya[95]
và trích dẫn kinh văn từ Bộ Vi Diệu Pháp, đã trình bày Học Thuyết
như sau: ‘Tập họp (Uẩn) Sắc là vô ký; trong số bốn uẩn (Danh), một
số là thiện, một số là bất thiện, một số là vô ký nữa. Trong số mười
xứ là vô ký; hai xứ còn lại mang tính chất thiện, hay bất thiện hoặc
vô ký. Có mười sáu giới là vô ký; hai thành giới (còn lại) có thể
mang tính chất thiện, bất thiện hoặc vô ký. Mười Quyền lại vô ký; Ưu
quyền là bất thiện; quyền (thúc giục và truyền cảm hứng cho chúng
ta) cũng vậy – ‘Ta đến để hiểu rõ điều vô khả thức (unknown)’ – là
thiện; bốn quyền có thể là thiện hoặc vô ký; sáu khả quyền có thể
thiện, bất thiện hoặc vô ký[96].
Một Tỳ-khưu ngồi thiền tại đó lên tiếng hỏi: ‘Thưa Ngài Luận sư,
ngài trích dẫn một kinh văn dài như thể sắp sửa đi vòng quanh Núi
Sineru; vậy kinh văn đó là gì vậy?’. ‘Hỡi chư đệ, đó chính là Bộ Vi
Diệu Pháp vậy. ‘Tại sao Ngài lại trích dẫn kinh văn Bộ Vi Diệu Pháp
vậy? Phải chăng Chư Tỳ-khưu không có nhiệm vụ trích dẫn những kinh
văn khác đã được Ðức Phật phán ra hay sao?’. (Luận sư) ‘Hỡi chư đệ,
ai đã diễn giải Bộ Vi-Diệu-Pháp?’. ‘Dạ thưa Chư Tỳ-khưu, chẳng phải
Ðức Phật đâu’. (Luận sư) ‘Nhưng, hỡi chư đệ, có phải chư đệ đã
nghiên cứu Luật- Tạng không?’. ‘Dạ thưa Chư tăng không ạ’. (Luận sư)
‘Ta cho rằng bởi vì không nghiên cứu Luật- Tạng, nên chư đệ nói như
vậy do bởi chư đệ không biết đó thôi’. ‘Dạ thưa Chư tăng, đã thực sự
nghiên cứu một số Luật-Tạng’. (Luận sư) ‘Vậy thì chư đệ đã thâm nhập
vào Bộ này quá ít đó, hẳn chư đệ đã ngồi ở cuối hội nghị và đang ngủ
gật đó hay sao?’. Một người đã thoát tục do ảnh hưởng của Luận sư
như chính chư đệ đã tuyên đọc (công thức?) Nơi Nương Tựa, hoặc giả
một người đã tiếp nhận Ðại Thọ Giới đầy đủ trước sự chứng kiến của
Tăng Ðoàn các Luận sư đông đảo như chính chư đệ, lại nghiên cứu Luật
tạng (Vinaya) một cách cẩu thả như vậy, thì đã làm điều sai lầm thực
sự. Tại sao vậy? Chính là do việc “nghiên cứu một số Luật tạng”
không đúng cách mà ra. Bởi vì chính Ðức Phật đã phán[97]:
“Nếu không có ý đồ xúc phạm đến Luật tạng mà ta lại muốn xui khiến
người khác nói rằng, làm ơn hãy nghiên cứu Kinh tạng hoặc các Kệ
hoặc giả cả Bộ Vi-Diệu-Pháp nữa, rồi sau đó đệ mới nghiên cứu Luật
tạng (Vinaya), thì Chư đệ chẳng có lỗi lầm gì cả.” (Lại nữa, trong
Tỳ-khưu ni Bộ Phân tích[98]
nói rằng: “Chư vị Tỳ-khưu ni phạm một lỗi nhỏ), nếu vị đó đặt vấn đề
về Bộ Vi-Diệu-Pháp hoặc Luật tạng sau khi đã được phép (đặt câu hỏi)
về Kinh, hoặc về Kinh hay về Luật tạng nữa, sau khi đã được phép
(đặt vấn đề) về Luật tạng.”. Nhưng thậm chí chư đệ đã không biết
nhiều[99]
về bộ đó’. Người theo tà kiến đã bác bỏ quá nhiều điều. Bộ
Mahagosinga thậm chí lại còn có quyền uy mạnh mẽ hơn (để chứng
tỏ rằng Vi-Diệu-Pháp chính là Lời của Ðức Phật). Vì từ bộ này, ngài
Xá-lợi-phất (Sāriputta),
Tướng quân Chánh pháp (Generalissimo) Luật tạng, đã tiến lại gặp vị
Ðạo sư (đức Phật) để thông báo cho ngài biết những câu hỏi và câu
trả lời qua lại xảy ra giữa Mahamoggallana và chính bản thân ông, và
thuật lại những câu trả lời của Mahamoggallana, (Bậc Ðạo sư (đức
Phật) nói rằng [29]: ‘Hỡi này Xá-lợi-phất (Sāriputta),
trong câu chuyện về đạo giáo của hai vị Tỳ-khưu liên quan đến
Vi-Diệu-Pháp, mỗi người hỏi và trả lời với nhau mà không một chút
ngập ngừng, đều rất phù hợp với giáo pháp. Giờ đây, hỡi này
Xá-lợi-phất (Sāriputta),
một vị Tỳ-khưu có thể làm tăng vẻ đẹp Khu Rừng Gosinga Sala’[100].
Bậc Ðạo sư (đức Phật), vì không cho rằng các vị Tỳ-khưu, thông thạo
Vi Diệu Pháp, lại không tham gia đạo giáo của ngài, ngài đã ngẩng
cao cổ giống như cái trống, và hít một hơi dài, đầy sung sướng trọn
vẹn như trăng rằm, ngài đã phát ra giọng nói oanh vàng khen ngợi
Moggallana như sau: ‘Tốt lắm, tốt lắm, Hỡi Xá-lợi-phất (Sāriputta)!
Các đệ tử nên trả lời chính xác như Moggallana đã làm; quả thật
Moggallana là một vị Luận sư diễn giảng giáo pháp đại tài. Và theo
truyền thống, chỉ có vị Tỳ-khưu nào am tường Vi-Diệu Pháp mới chính
là những Luận sư diễn giảng giáo pháp đích thực mà thôi; những vị
còn lại, cho dù có diễn giảng giáo pháp rất tốt, vẫn không phải là
những Luận sư diễn giảng điều đó đâu. Tại sao vậy? Thưa rằng, đang
nói diễn giải giáo pháp, các vị đó lẫn lộn những loại tác nghiệp
(Kamma) khác nhau và ảnh hưởng các tác nghiệp đó đem lại, họ vẫn
chưa phân biệt rạch ròi được giữa Danh và Sắc, và còn lẫn lộn nhiều
trạng thái khác nhau nữa. Các thiền sinh nghiên cứu Vi-Diệu-Pháp
không được nhầm lẫn như vậy; vì thế nên một vị Tỳ-khưu am hiểu
Vi-Diệu-Pháp, cho dù có diễn giảng giáo pháp hay không, vẫn có khả
năng trả lời được những câu hỏi đặt ra bất cứ lúc nào. Chính vì thế
chỉ chư vị Tỳ-khưu đó mới là Luận sư diễn giảng giáo pháp đích thực
mà thôi. Bậc Ðạo sư (đức Phật) ám chỉ đến điều này thì ngài tán
thành nói rằng, “Quả thật Moggallana đã trả lời rất tốt những câu
hỏi đó”. Kẻ nào ngăn cản việc thuyết pháp Vi-Diệu-Pháp tức là Pháp
Luân Của Bậc Chiến Thắng (the Wheel of the Conqueror), phủ nhận khả
năng toàn tri của ngài, phá hoại Tuệ giác đầy quyền uy của Bậc Ðạo
sư (đức Phật), đánh lừa cử tọa, ngăn cản Thánh Ðạo của các Tôn Giả,
tự tỏ mình là người ủng hộ cho một trong số mười tám nhân duyên bất
đồng trong Tăng Ðoàn, dám thực hiện những hành vi khiến tác giả của
hành vi đó đang bị trừng phạt, khiển trách hoặc bị khinh miệt (nơi
Tăng Ðoàn), và bị loại khỏi Tăng Ðoàn, hay bị cảnh cáo[101]
bằng những hành vi trừng phạt đặc biệt, bị khiển trách hoặc bị khinh
miệt, và bị buộc phải sống bằng những thức ăn dư thừa.
Nhưng
nếu như kẻ Dị giáo nói rằng, phải chăng Ðức Phật đã chẳng diễn giải
Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) ắt hẳn phải có một phần dẫn nhập mở
đầu cho bộ đó, giống như trong hàng ngàn, hàng vạn các bộ khác vẫn
có phần dẫn nhập như, ‘Ngày kia, Ðức Thế Tôn đang có mặt tại Vương
xá (Rājagaha)’
v.v...chắc hẳn đã có người cãi lại ngài như thế này: ‘Kinh Bổn
Sanh (Jataka) Bộ Nipata, Pháp cú kinh (Dhammapada) v.v... không
hề có phần giới thiệu, tuy nhiên, Ðức Phật[102]
cũng đã diễn giải các bộ đó”. Ngoài ra, ngài còn nói thêm rằng: ‘Ôi
bậc trí tuệ, Bộ Vi-diệu-pháp chính là phạm vi hoạt động của chư
Phật, chớ chẳng phải là lãnh địa của những người khác đâu; từ đó
giòng dõi của chư Phật, thân thế của họ. Thành tích đạt đến đỉnh trí
tuệ trọn lành của họ, việc xoay chuyển Bánh Xe pháp, việc thực hiện
Hiện Song Thông, việc thăm viếng chư Thiên, giảng pháp trong thế
giới- chư Thiên[103],
và dòng dõi của các vị ấy, tất cả đều đã được từ đó thể hiện. Không
thể lý giải được việc đánh cắp cỗ Tượng Quí (voi hoàng gia), hoặc
con tuấn mã của Chúa tể vũ trụ, và thắng cương vào cỗ xe kéo rồi
đánh xe đi rảo khắp nơi, hoặc đánh cắp Bánh Xe-Bảo Vật, rồi gắn chặt
vào một cỗ xe chở cỏ khô và đánh đi chu du khắp nơi, hoặc sử dụng
Bảo Ngọc quí giá có khả năng phát sáng xa hàng Do-tuần (yojana), lại
đặt trong một chiếc giỏ bông – tại sao thế? Thưa bởi vì tất cả đều
là tài sản hoàng gia. Ngay cả như vậy chăng nữa, Bộ Vi-điệu-pháp
cũng chẳng phải lãnh địa của những kẻ khác đâu; bộ này chỉ là lãnh
địa của các Ðức Phật mà thôi. Tương tự như một Bài Pháp, chỉ duy
nhất chỉ có các vị đó mới có thể diễn giải Vi Diệu-Pháp; bởi vì
nguồn gốc các chư vị đó đã được chứng tỏ ... giống như cuộc trở về
của chư vị đó từ thế giới. Ôi bậc trí tuệ, không nhất thiết phải có
phần dẫn nhập đối với Vi Diệu Pháp đâu’. Khi phát biểu câu nói này
như vậy, thì đối thủ không chính thống chẳng tìm đâu ra được những
dẫn chứng minh họa để hỗ trợ cho lý lẽ của họ,
Trưởng
Lão Tissabhuti, là cư dân tại Công Viên Trung Tâm, muốn chứng tỏ
rằng vị trí Ðại Giác Ngộ[104]
Vĩ Ðại của Ðức Phật chính với mong muốn chứng tỏ rằng địa điểm Giác
Ngộ Vĩ Ðại (của Ðức Phật) chính là phần dẫn nhập cho Bộ
Vi-Diệu-Pháp, như đã trích dẫn Bộ Padesavihara – ‘Nầy chư
Tỳ-khưu, bất cứ lối sống nào ta đã trải qua, sau khi đã đạt được
giác ngộ, ta đã tận hưởng lối sống đó (trong hai tuần nay)’. Vị
Trưởng Lão đã phát triển điều này: Có cả thảy mười vị trí đó là: Các
Uẩn, các xứ, các giới, các Chân đế, các quyền, các duyên khởi, những
Niệm xứ (Application of Sati), Thiền, tâm và các pháp. Trong số các
vị trí này, khi ngồi thiền tại gốc Cây Bồ-đề vĩ đại, Ðức Phật đã
nhận ra được đầy đủ Ngũ Uẩn hoàn hảo; trong suốt ba tháng, ngài chỉ
sống bằng thọ uẩn[105]
đó. Ngài đã trực giác được đầy đủ mười hai xứ và đầy đủ mười tám
giới; trong suốt ba tháng, ngài chỉ sống bằng cảm giác mà thôi,
trong xứ và trong giới những biểu hiện Danh là thôi. Ngài đã chứng
ngộ được Tứ Diệu Ðế; trong ba tháng ngài chỉ sống trong cảm thọ mà
thôi. Ngài đã chứng ngộ được hoàn toàn hai mươi hai quyền; trong
suốt ba tháng, ngài chỉ sống nhờ vào Ngũ Căn (indriyas)[106].
Ngài đã chứng ngộ đầy đủ chuỗi[107]
duyên khởi; trong suốt ba tháng, ngài chỉ sống bằng cảm thọ lấy xúc
giác làm nguyên nhân. Ngài chứng ngộ đầy đủ được Tứ Niệm Xứ
(application of Mindfulness); Trong ba tháng ngài đã sống chỉ nhờ
vào cảm thọ căn cứ vào đó ngài áp dụng thiền định.[31] Ngài cũng đã
chứng ngộ được hoàn toàn bốn cách nhập thiền
Jhāna;
trong vòng ba tháng ngài chỉ sống hoàn toàn dựa trên những chi thiền
đó mà thôi. Ngài đã chứng ngộ được hoàn toàn tâm; trong vòng ba
tháng ngài chỉ sống nhờ cảm thọ tâm mà thôi. Ngài cũng đã chứng ngộ
hoàn toàn được các pháp khác nữa; trong suốt ba tháng, ngài chỉ sống
nhờ vào (một hoặc hai) mẫu đề tam thọ đó[108].
Như vậy Trưởng lão đã đề ra phần giới thiệu Vi Diệu Pháp bằng cách
viện dẫn đến Bộ Padesavihara.
Trưởng
Lão Sumanadeva, sinh sống trong một ngôi làng nọ, đang khi chuyển
ngữ tam tạng[109]
Trong khi phiên dịch các Tam tạng tại tầng trệt tòa lâu đài Brazen,
ngài suy nghĩ rằng: ‘Ðạo hữu không chính thống này, do không biết gì
về phần dẫn nhập (nidana) Bộ Vi Diệu Pháp, nên chỉ giống như một
người đang than khóc (không được trợ giúp) trong rừng rậm hai tay
đưa lên trời, hoặc giống như một người đã bố trí một vụ kiện mà
không có nhân chứng’.[110]
Và để chứng tỏ có phần giới thiệu này, Vị Trưởng Lão nói rằng: ‘Có
một lần kia, Ðức Thế Tôn có mặt giữa chư thiên trên ngọn đồi,
Pandukambala, dưới gốc cây Paricchattaka nơi cõi Tam Thập Tam Thiên
(Tavatimsa). Sau đó, Ðức Thế Tôn đã diễn giải Bộ Vi Diệu Pháp cho
các chư thiên nơi cõi Tam Thập Tam Thiên (Tavatimsa) như sau: “Những
trạng thái tâm có thiện, bất thiện, vô ký v.v...”
[111].
Nhưng
ngược lại, trong các Bài Pháp về Kinh tạng, chỉ có một phần giới
thiệu duy nhất được thực hiện, còn trong Bài Pháp về Vi Diệu Pháp
lại cần đến hai phần giới thiệu: một là về Sự Nghiệp và Mục Tiêu của
tác phẩm này, và hai là giới thiệu về học thuyết chứa đựng trong đó.
Trong đó, phần thứ nhất trình bày về những sự kiện từ thời đức Phật
Dipankara cho đến thời Ðức Phật Thích Ca ngồi dưới gốc cây Bồ-đề;
phần thứ hai bao gồm các sự kiện xảy ra giữa thời kể trên và thời
đức Phật Thích ca chuyển Pháp luân (Wheel of the Dhamma). Như vậy
được thành thạo trong việc giới thiệu (dẫn nhập) Bộ Vi Diệu Pháp,
gồm cả hai phần giới thiệu trên, những vấn đề sau đây được nêu lên.:
1. Bộ Vi Diệu Pháp xuất phát từ đâu?, 2. Bộ này được hoàn thiện ở
đâu? 3. Bộ này được quán triệt đến đâu?, 4. Bộ này được quán triệt
khi nào? 5. Ai quán triệt được bộ này? 6. Bộ này được nghiên cứu ở
đâu?, 7. Bộ này được nghiên cứu khi nào?, 8. Ai nghiên cứu bộ này?,
9. Bộ này được thuyết ở đâu?, 10. Bộ này được thuyết vì ích lợi của
ai?, 11. Bộ này được thuyết vì mục đích gì,? 12. Bộ này được ai đón
nhận?, 13. Ai đang nghiên cứu bộ này? 14. Ai đã nghiên cứu bộ này?,
15. Ai học thuộc lòng bộ này?, 16. Bộ này là lời của ai?, 17. Ai
truyền đạt lại bộ này?
Câu trả
lời cho các câu hỏi trên là: 1. Nguồn gốc Bộ Vi Diệu Pháp chính là
lòng tin do việc giác ngộ thôi thúc. 2. Bộ này được hoàn thiện với
550 Kinh Bổn Sanh (Jataka). 3. Bộ này được quán triệt tại gốc cây
Bồ-đề. 4. Bộ này được quán triệt nhân ngày rằm tháng sáu (Visakha)
5. Bộ này được Ðức Phật toàn giác quán triệt. 6. Bộ này được liễu
ngộ tại gốc cây Bồ-đề. [32], 7. Bộ này được liễu ngộ trong suốt 7
ngày tại toà nhà Bảo ngọc, 8. Bộ này được Ðức Phật toàn giác liễu
ngộ. 9. Bộ này được giảng cho chư thiên cõi Tam Thập Tam Thiên. 10.
Bộ này được thuyết vì lợi ích cho Chư Thiên. 11. Bộ này được thuyết
để giải thoát khỏi Tứ Bộc Lưu. 12. Bộ này được Chư Thiên đón nhận.
13. Những người đang bị quản chế và những người thiện tâm trên cõi
phàm tục nghiên cứu bộ này. 14. Những bậc thánh đã thoát khỏi những
lậu hoặc, 15. Những người đang ấp ủ bộ Vi Diệu Pháp đã học thuộc
lòng bộ này, 16. Bộ này là lời của Ðức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh
đẳng chánh giác. 17. các vị Luận sư thay phiên nhau truyền đạt bộ
này. Bộ Vi Diệu Pháp đã được truyền đạt do các vị Trưởng Lão ngược
lên cho tới thời Ðại Hội thứ ba đó là: Trường Lão Sāriputta,
Bhaddaji, Sobhita, Piyajāli, Piyapāla,
Piyadassī, Kosiyaputta, Siggava,
Sandeha, Moggalīputta, Visudatta,
Dhammiya[112],
Dāsaka,
Sonaka, Revata
và các vị Trưởng Lão khác
nữa. Sau đó, Bộ Vi Diệu Pháp đã được các đệ tử kế vị các Trưởng Lão
truyền đạt lại hậu thế. Như vậy bộ này đã được các bậc Luận sư không
gián đoạn chuyền tải xuống tại Ấn Ðộ. Và sau đó từ đảo quốc Tích
Lan, bộ này được lan truyền đến cho các vị
Mahīnda,
Iddhiya[113],
Uttiya[114],
Bhaddanāma
và Sambala. Từ Ấn Ðộ, những bậc Trưởng Lão trí tuệ vĩ đại đó đã đem
Bộ Vi Diệu Pháp đến hòn đảo này, và kể từ đó cho đến nay, bộ này đã
được truyền lại cho hàng Luận sư là các đệ tử của các vị đó. Ðược
truyền tải như vậy, phần giới thiệu về Sự Nghiệp và Mục Tiêu của tác
phẩm Vi Diệu Pháp, từ thời đức Phật Dipankara cho đến thời phật
Thích Ca đạt đạo dưới gốc cây Bồ-đề, các sự kiện xảy ra giữa thời kể
trên và thời ngài chuyển pháp luân (Wheel of the Dhamma) và phần
giới thiệu học thuyết cho tới khi việc xoay chuyển Bánh Xe pháp từ
truyền thống sẽ trở thành rõ ràng:
(Tiếp
theo sau đây là câu chuyện Dūrenidāna
trong tập Chú Giải Kinh Bổn Sanh (Jataka). do Fausboll xuất bản tập
i. tr. 2-47 do bà Rhys Davids dịch trong câu chuyện tiền thân của
đức Phật, tr. 2-58)
Tại nơi
Trời Ðâu Xuất (Tusita), ngài vượt trội hẳn chư thiên với 10 thuộc
tính; ngài vui hưởng niềm vui thiên giới, cho đến mãn cuộc đời [33]
kéo dài suốt năm mươi bảy kotis và sáu mươi ngàn năm, theo
kiểu tính toán hạ giới. Chư thiên được báo cho biết[115]
đã đến lúc ngài phải kết liễu cuộc đời đang sống giữa Chư thiên
trong vòng bảy ngày, vì đã xuất hiện năm điềm báo cụ thể là - quần
áo của ngài bị vấy bẩn, những bông hoa bị tàn phai[116],
mồ hôi từ hai nách toát ra, cơ thể mất hết hào quang, Chư thiên
không thể tề tựu nơi chỗ ngồi dành riêng cho ngài nữa – ngài đã dao
động trước suy nghĩ: ‘Các tầng trời trở thành trống rỗng! Họ biết
rằng Ðấng Hiện Hữu Vĩ Ðại đã hoàn tất những thiện pháp, và họ nghĩ
rằng: ‘Nếu giờ đây ngài có được Thành Phật bằng tái sanh nơi cõi
trần thế, thì những ai thực hiện được những việc công đức ắt hẳn sẽ
phải qua đi, và thay vì đi vào cõi chư thiên khác, Chư thiên sẽ tràn
ngập cõi đời này vậy.
Vì
thế cho nên Ðức Phật đã dạy với Xá-lợi-phất (Sāriputta):
Khi ta ngự nơi Cõi Trời Ðâu Xuất,
từ vô vàn cõi thế Santusita đã yêu cầu đến ta.
Họ đến với ta với đôi bàn tay cầu khẩn,
Họ thưa rằng: Ôi người Anh Hùng Vĩ Ðại,
Giờ đã điểm ngài hạ giới tái sanh
Cùng giác ngộ chính Ðạo Bất Tử,
Cả chư thiên lẫn chúng sinh được giải thoát.
Do đó,
khi được yêu cầu trở thành Phật như vậy, Ðức Phật liền quan sát rất
cẩn thận năm điều liên quan đến Thân Mẫu (tương lai) của ngài về
tuổi tác, tư cách, địa vị, dòng họ, gia đình và tuổi thọ của người
mẹ tương lai. Sau khi đã quyết định, ngài đã rời khỏi Cõi Trời Ðâu
Suất và tái sanh trong một gia đình vương giả Thích Ca, và tại gia
đình đó, đến đúng thời ấn định, ngài đã đạt đến tuổi thanh xuân cuộc
đời, không hề giảm sút tận hưởng niềm vui trọn vẹn trong vinh quang
phú quí cuộc đời.
Những
chi tiết về cuộc đời của ngài trong quãng thời gian này, cũng như
những lời chú giải về các chi tiết đó được gộp lại trong đoạn văn
sau đây: ‘Này Ananda, đấng đầy lòng quan tâm và thông suốt mọi sự,
ngài (Ðức Phật) đã rời khõi cõi trời Ðâu Xuất (Tusita) và tái sanh
trong lòng thân mẫu của ngài’[117],
v.v... Trong khi vui hưởng vinh quang phú quí của hàng vua chúa đế
vương, được sánh ngang với vinh quang các vị chư thiên nơi ba cung
điện thích hợp với ba mùa tương ứng trong năm, một ngày kia, đang
khi ra ngoài thư giãn thưởng ngoạn phong cảnh vườn thượng uyển, ngài
đã nhìn thấy ba vị Chư thiên sứ giả, lần lượt người này đi theo sau
người kia, dưới dạng một người già nua, một người bệnh tật và một
người chết. Ngài vô cùng xúc động và liền quay trở lại hoàng cung
ngay tức khắc. Nhưng người thứ tư ngài chứng kiến lại là một nhà sư,
và do quí chuộng lối sống của vị chân tu ẩn sĩ, ngài suy nghĩ rằng:
‘Trở thành một nhà sư chân tu thật tuyệt vời biết bao’. Thế rồi ngài
tiếp tục ra đi thưởng ngoạn ngoài vườn thượng yển và lưu lại ở đó
suốt cả ngày; và đang khi ngài ngồi bên bờ một đầm sen may mắn và có
Chư thiên Vissakamma đến đàm đạo với ngài, Chư thiên xuất hiện giả
dạng một người thợ hớt tóc [34], ngài nghe biết thông tin thái tử
Rahula-Bhadda của ngài đã chào đời. Ngài tỏ ra vô cùng yêu mến đứa
con trai của mình bằng một tình phụ tử lớn lao. Nhưng ngài lại suy
nghĩ: ta nên cắt đứt mối tương quan này trước khi nó trở nên mạnh mẽ
không thể kiềm chế nổi rồi vào lúc chập choạng tối, ngài đã trở lại
thành phố:
‘Phải chăng người mẹ đó chẳng có được trí tỉnh lặng?
Phải chăng người cha đó chẳng có được tâm hồn yên tĩnh?
Phải chăng người vợ đó chẳng phải là chúa tể của lòng ngài?’
Vừa nghe thấy Kisagotami,
con gái bạn dì của ngài, ngâm lên đoạn kệ đó, ngài (Ðức Phật) đã gỡ
khỏi cổ ngài một chuỗi ngọc quí đáng giá một trăm ngàn đồng tiền, và
đưa gửi chuỗi ngọc quí đó cho cô em họ và nói rằng: ‘Cô em đã tỏ bày
cho ta thấy đạo tĩnh lặng’ Ngài quay trở vào lâu đài của mình, và
ngồi trên chiếc trường kỷ lộng lẫy xa hoa, ngài cảm thấy thân xác
rạo rực ngài biến đổi trước các vũ nữ đang say mê trong giấc ngủ.
Trong lòng đầy chán nản, ngài đánh thức Channa, truyền đem tuấn mã
Kanthaka đến cho ngài thượng yên ngựa, cùng với người hầu Channa bao
quanh ngài là vô vàn vô số chư thiên thuộc muôn vàn cõi cùng
lên được và chứng kiến cuộc Ly xuất Vĩ đại của ngài (Ðức Phật). Suốt
thời gian còn lại trong đêm hôm đó, ngài đã vượt qua ba vương quốc[118]
rộng lớn, ngay trên bờ sông Anoma ngài đã trở thành một nhà sư và
ngài đã có mặt tại Rājagaha
đúng lúc. Sau khi ngài đã rảo bộ khất thực quanh vùng đó, rồi quay
trở lại ngồi thiền tại một hang động trên Núi
Pandava,
vua nước Magadha đã dâng vương quốc của mình cho ngài, nhưng ngài đã
khước từ. Tuy nhiên ngài hứa với nhà vua sẽ thăm vương quốc của
ngài, sau khi ngài đạt được Giác Ngộ. Kế đó, ngài tiến đến đạo sĩ
Ālāra
và Kālāma-Uddaka.
Do không thỏa mãn với những Tuệ giác đặc biệt ngài muốn đạt được từ
nơi họ, nên ngài đã tập luyện khổ hạnh phi thường trong suốt sáu năm
liền. Vào ngày Rằm tháng Tư, ngay buổi sáng sớm, ngài dùng bữa ăn do
Sujātā
ở ngôi làng Senani, thuộc khu ngoại ô dâng lên ngài, sau khi đã thả
trôi bình bát khất thực bằng vàng xuống giòng sông Neranjarā,
ngài đã qua một ngày với nhiều thành quả ngài đã thu lượm được trong
Khu Rừng Rậm Ðại Lâm bên bờ sông, và khi trời tối, sau khi đã nhận
tám nắm cỏ khô do người chăn dê tên là Sotthiya dâng tặng, ngài
thượng lên ngai được dâng cúng, kê ngay dưới gốc cây Bồ-đề, trong
khi đó Kāla,
vua Nāga,
xướng lên những bài ca khen ngợi ngài và rải những nắm cỏ làm chỗ
cho ngài ngồi thiền, ngài quyết định: ‘Khi nào tâm trí của ta chưa
được giải thoát khỏi những thứ mê hoặc, do bởi thèm khát tham lam,
thì ta sẽ không thay đổi thế ngồi. Và sau khi ngồi thiền quay về
hướng Ðông, trước lúc mặt trời lặn, ngài đã xua tan sức mạnh Ma
Vương (Mara). Vào Canh thứ nhất Ðức Phật đã đạt đến và nhận ra được
những tiền kiếp trong quá khứ, đến giữa canh nhất ngài thấu hiểu
được những lẽ sanh và tử, và đến cuối canh ba, ngài đã chứng ngộ
được quả toàn giác (omniscience), ngài đã đạt được toàn bộ những
phẩm chất của chư Phật, chẳng hạn như Thập lực, Tứ chánh cần, [35]
và ngài đã thông hiểu Pháp vi diệu.
Nên coi
điều này như là phần giới thiệu Bộ Vi-Diệu-Pháp, kể về Sự Nghiệp và
Mục Tiêu của tác phẩm này.
Do đó,
sau khi nắm rõ được nội dung Bộ Vi Diệu Pháp, ngài đã ngồi thiền
trong một tư thế duy nhất trong suốt bảy ngày; rồi ngài hành thiền
trong bảy ngày liên tục quán tuởng về đỉnh cao của trí tuệ, mà không
hề chớp mắt; Ngài đã thiền hành trong bảy ngày nữa; và đến tuần lễ
thứ tư, trong sự trầm tư mặc tưởng ngài đã thấu đạt được (giác ngộ)
Vi Diệu Pháp[119].
Ngài còn trải qua thêm ba tuần nữa dưới gốc cây đa[120]
của người chăn dê, rồi tại gốc cây Mucalinda và cây Rājāyatana.
Nguyên suốt tuần lễ thứ tám, ngài đã ngồi thiền tại gốc cây đa của
nguời chăn dê. Ðang khi trầm tư mặc tưởng về tính uyên thâm của Các
pháp, ngài không muốn truyền bá chánh pháp; nhưng khi Phạm thiên
(Sahampati) cùng đi với một đoàn tùy tùng của các vị Ðại Phạm Thiên
từ vô số cõi chư thiên đến gặp ngài và van khẩn ngài giảng pháp cho
họ, ngài liền nhìn cõi trần gian này bằng “Phật Nhãn’; và chiều theo
ý nguyện của Ðấng Ðại Phạm Thiên yêu cầu ngài thu thập các đệ tử,
ngài liền tự nhủ: ‘Ta sẽ giảng các pháp lần đầu tiên cho ai đây?’.
Ngài nhận ra rằng các vị Ālāra
và Uddaka đều đã viên tịch, nhưng khi nhớ đến những việc phục vụ lớn
lao của nhóm năm nhà sư, ngài liền rời khỏi chỗ ngồi thiền và đi tới
thành phố Kāsi.
Trên đường đi, tình cờ ngài đã gặp và nói chuyện với Hành Giả Upaka,
và vào một ngày rằm tháng sáu nọ, ngài đi đến nơi cư ngụ của năm nhà
sư tại Công Viên Con Nai ở thành phố Isipatana. Ngài đã thuyết phục
cho các vị sư này (sự giác ngộ của ngài), họ đã dùng một thuật ngữ
trong bài nói chuyện[121]
không phù hợp với vị trí mới của Ðức Phật, rồi đang khi xoay chuyển
Bánh Xe Các pháp, ngài đã ban cho họ, đứng đầu trong số họ là Trưởng
Lão Annakondanna, và cùng với họ là một đoàn đông đảo gồm tới mười
tám nghìn Phạm Thiên, ngài giảng về sự bất tử. Như vậy chúng ta nên
hiểu giới thiệu Bộ Vi Diệu Pháp về Học Thuyết này nên hiểu là cách
dẫn tới việc chuyển pháp luân vậy.
Ðây chỉ
là bản tóm tắt. Một bản tường trình chi tiết nên được nghiên cứu và
am tường dựa trên các kinh Ariyapariyesanā
và Bộ Pabbajjā
cùng với những tập chú giải cho từng tác phẩm một.
Những
phần giới thiệu Vi Diệu Pháp về Sự Nghiệp và Học Thuyết có thể được
chia thành ba giai đoạn, tùy thuộc vào khoảng cách các sự kiện cổ
đại, cận cổ đại và cận đại. Trong số đó chúng ta nên hiểu phần giới
thiệu giai đoạn cổ đại bắt đầu với các sự kiện đức phật Dipankara
cho đến nơi ở tại cõi trời Ðâu Xuất (Tusita), còn từ các hiện tượng
xảy ra tại nơi ở tại cõi trời Trời Ðâu Xuất (Tusita) đến sự kiện
Giác Ngộ diễn ra tại gốc cây Bồ-đề là phần cận đại. Một phần giới
thiệu theo nguyên kinh văn là: ‘Một lần kia, Ðức Thế Tôn đang hiện
diện giữa chư thiên ngay trên ngọn núi đá Pandukambala, dưới gốc cây
Pāricchattaka.
Tại đó, Ðức Thế Tôn đã tường thuật lại Bài Pháp về Vi Diệu Pháp cho
cõi Tam Thập Tam Thiên (Tavatimsa)’ – đó là phần giới thiệu Cận Ðại.
Ðây là Bài Giới Thiệu Bộ Vi
Diệu Pháp
-ooOoo-
[1] Các học giả
Miến Ðiện vẫn thường viết là
Aṭṭhasālinī
[2] Một bản ghi chú
chung đầy đủ sẽ được in chung với cuốn hai (và đang đi đến chố kết
thúc biên soạn)
[3] Xin đọc Vô Ngại
Giải Ðạo (Patisambhidāmagga),
i. 125 tt,; Kinh Bản Sinh (Jataka) , 1. 77,88,193.
[4] Tidasalaye.
nghĩa đen. nơi ở của ngài ở cõi Tam Thập Tam Thiên. Tiđasa,
thường xuyên được thay thế, trong văn vần cho Tam Thập Tam
Thiên (tivatimsa) (thí dụ như Therig. ver. 181; và trong văn suôi,
Mil, 291) Phân đoạn (Tīkā)
Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) đã diễn giải như một dạng tĩnh lược của
ti-tidasa=Tam thập tam thiên (tavatimsa). Tác phẩm này còn có một
cách giải thích khác nữa trong những đoạn dasa-avattha, cụ thể là
về, cuộc sống: sanh, phát triển và diệt. hay là theo như
Abhidhanappadipikasuci – chúng sanh (satta), rồi diệt (vinasa)
dasa được kể như parimana (ba cách tái sanh) – Tr.
[5] Bản Dịch tiếng
Miến Ðiện cho là mẹ ngài tái sanh thành nữ thiên Santussita. Ðoạn
văn Pāli
‘mantaram pamukham katvà dòng thứ 11 cũng có thể được phân
tích với vị ngũ, sampavattauyi, như sau: ngài mở miệng
thuyết pháp về Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cho một nhóm đông đảo các
Chư thiên, Chủ yếu ngài pháp cho chính mẹ ngài nghe.
[6] Desetva
nayato, cũng còn có nghĩa là ‘bằng cách chỉ vẽ ra phương pháp
giảng dạy’ - Tr
[7] Theo truyền
thống kể lại đây là một chiếc hồ lớn ở dãy núi Hy-mã-lạp –sơn.
chúng tôi không tìm thấy đoạn này trong bất kỳ tác phẩm khác. Xin
đọc Kinh văn Luật tạng, I 124- Ed (NXB).
[8] Hay còn gọi là,
nhà hiền triết trí tuệ và dũng lực” tức Trưởng lão Ananda. Kindred
Sayings.
[9] Ðây không phải
là vị Hoà Thượng tác giả của tác phẩm này – Tr.
[10] Theo các nhà
chú giải Miến điện, khoảng độ 450 năm sau khi Ðức Phật nhập Niết
bàn còn theo sự ước tính hiện hành tại Phương tây thì vào khoảng
230 năm sau khi Ðức Phật nhập Níp bàn.
[11] Nikāyantaraladīhi
= nikāya, đây là một “nhóm” chư tăng
theo + phái Antara. Nhóm chư tăng theo pháp laddhihi. cùng
với quan điểm riêng của chư vị. Theo như Manidipa cho rằng hai
nhóm giáo phái khác đó là Abhayagirivasi và Jetavanavasi, là chư
tặng cư ngụ tại thiền viện Abhayagiri, và thiền viện Jetavanna –
một số người lại Dịch sai nghĩa đi cho là ‘những quan điểm cực
đoan nằm trong Nikāyas
- Tr.
[12] Abhidhammakatham là chữ viết tắt
của từ Abidhamma-Atthakatham - Tr
[13] Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta), iv. 120
[14] nt. i. 1 v.v...
[15] nt Vibh. tr. 122 tt
[16] nt. tr. 306 tt
[17] Vibh. 345 tt
[18] Vibh. 345 tt
[19] Một cuốn sách khác nữa được biên
soạn tại Ceylon.
vì thể không nằm trong hệ thống Kinh Phật. thật hơi khó hiểu trong đoạn đối
thoại này – Ed (NXB) ý nghĩa ở đây không mấy rõ ràng là bao.- Tr
[20] Ðược nhắc lại ở cuối mỗi đoạn gồm DhammahadayaVibhaṅga,
Mahadhammahadaya, Dhātukathā, và DhatuVibhaṅga (Majjh, iii 237)
[21] Xin đọc Points of Controversy. tr.
8-12
[22] ib. 1 tt
[23] Phân tích thapita với sa pan’esa trong
đoạn 8
[24] Iti=tasma Manidipa
[25] Trung Bộ (Majjhima), I 108 tt., do
Kaccana diễn giảng
[26] Như trong kinh Subhasutta, Dỵgha,
I 204 tt. do ngài Ananda diễn giải, và Kinh Sangitisutta nt iii. 207 tt do các
vị tham dự Hội Viên Hội đồng diễn giải
[27] Nidanam được dùng ở số nhiều có
nghĩa là karana (tác nghiệp)
[28] Tham dục, ngã mạn, và tà kiến là
ba nguyên lý kéo dài qui trình tiến hoá của một chúng sanh.
[29] Janam và passam có thể được hiểu
bằng hai cách,(a) như là phân từ thụ động tương lai – Janitabbam passitabbam như
được Dịch ra ở đây và (b) là hiện tại phân từ – jananto passanto, hiểu theo
nghĩa bằng cách thông hiểu tất cả những gì ngài biết, bằng nhìn thấy tất cả
những gì ngài quan sát được – Tr.
[30] Hay là con mắt trí tuệ’
[31] Hay là trí tuệ thông minh nhập thể’
[32] Dhamma=bodhipakkhiyadhamma xin đọc
Compendium 179, n.1
[33] Brhama =ariya magga. Phân đoạn (Tīkā)
[34] Xin đọc Dialogues ò the Buddha. ii
265
[35] Kiriya
[36] lokuttara
[37] Kinh để tụng (bhanavara) thường
gồm có 250 câu ba mươi hai vần, mỗi câu gồn bốn âm tiết tám vần- Tr
[38] trong B.P.E. ‘SẮC’ form’
[39] Nikkhepa. Trong B.P.E
“elimination”
[40] Có nghĩa là thuộc về thân xác, lời
nói và tư tưởng, Hơi thở được gọi là Hành (sankhāra) vì hơi thở được thân xác
thực hiện và hoàn tất; những ứng dụng tuệ giác tiên khởi và kéo dài cũng được
gọi là Hành (sankhāra) vì chúng do lời nói kết thúc; và những hệ số (hay chỉ
số) Danh còn lại được gọi là Tâm Hành (citta-Hành (sankhāra)) Tr. xin đọc thêm.
Trung Bộ Kinh (Majjhima), i. 301 (Vedella-sutta) Ed (NXB)
[41] Phối hợp 22 mẫu đề nhị một cách
tách biệt với mỗi đoạn Mẫu đề nhị – Tr.
[42] Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara) , v.
113. xin đọc Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikāya)
[43] Xin đọc Uttarimanussadhammasikkhapadam.
Sukkavisatthi sikkhapadam, và Sancaritasikkhapadm. Vin, iii 92. 113, 139- Tr.
[44] ‘Antaram’ ở đây chỉ có thể hiểu là
‘độc nhất’ phân đoạn (Tīkā). xin đọc Tự điển trẻ em. s.v. ‘tính chất riêng’
v.v...- Tr.
[45] xin đọc attheva= atthi eva.
[46] Nikhilena. nếu coi như là một tĩnh
từ dùng thêm nghĩa cho vị Mâu-ni từ này có nghĩa là giải thoát khỏi năm khilas
– Tr.
[47] đây là bản Dịch theo Phân đoạn (Tīkā).Những
cách khác Dịch khác như sau: ‘có một ước ao (Paṭṭhāna) sâu xa và khó hiểu được
vị đại Mâu ni pháp vào đúng lúc để giải khoảt khỏi năm ‘thứ gai góc’ sau khi đã
được biết qua trực quan các mối tương quan nhân quả nơi vạn vật. và có một đồ
đệ đã hiểu được điều đó ngay cả khi người đó nhìn thấy một vật thể trên cành lá
dừa trên tay – Pyỵ sadaw. “Vị đại thánh Mâu-ni nhờ trực giác đã truyền dạy toàn
bộ những điều đó trong tương quan nhân quả, và đã có một ước ao phổ quá, sâu xa
và rất khó hiểu. vị đệ tử hiểu ra điều đó dễ dàng như thể ta nhìn một vật trên
cành lá vừa trên tay vậy. – manidipa
‘Vẫn có những tương quan nhân quả được pháp một cách hoàn
chính do đức Ðại Thánh Mâu Ni đúng lúc nhờ vào tuệ giác của ngài. những tương
quan nhân quả này nơi những chúng sanh hiện hành. rất sâu xa và khó hiểu, đệ tử
của Ðức Phật nhìn thấy quá dễ dàng như là một vật trên cành lá dừa ngay trên
tay ngài. – Ganthipada.
[48] Savaka’s (các đệ tử hay là ‘kẻ
lắng nghe’) chỉ biết được điều đó nhờ Ðức Phật giảng dạy cho.- Tr.
[49] Ganthipada đọc thành Padhiyaputta.
Chính vì phép là được thực hiện nhằm chinh phục vị Ẩn Sĩ này ngay trước một đám
đông đạo hữu gồm có công dân nước Pataliputta. bài đọc khác cũng đúng y như
vậy.- tr.
[50] Hay là ‘những chủ đề đặc biệt hay
độc nhất vô nhị’ xin đọc tr. 14, n.2
[51] Hay ‘thích nghi tốt’ Mukhadanam=mukhavivaranam.
Phân đoạn (Tỵkā).
[52] nói ra được 128 từ cho một người
phàm tục.
[53] có nghĩa là tương đương với Dīgha và
Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikāyas)
[54] xin đọc Pss of the brethren, tr.
354
[55] Hay ‘bằng cách thư giãn bắp thịt
căng thẳng và như vậy làm cân bằng được bốn tư thế bách bộ, đứng ngồi và nằm’ Ariyalankarra’s
Nissaya.
[56] Dhamma. đây có thể được hiểu là Tứ
Diệu Ðế, sự thật là 37 yếu tố giác ngộ, Pháp Cú Kinh (Dhammapada) , chú giải về
Phật Tự Thuyết (Udana)
[57] Kinh văn Luật Tạng, i., 18; cũng
được Dịch trong cuốn P of C. 118. Xin đọc Comp. tr. 170
[58] Visankhāra
[59] Dhp. đoạn 154. Pss of the Brethren
đoạn 184. lại kết thúc có khác một chút. Trong bài giới thiệu các câu chuyện Kinh
Bản Sinh (Jataka) thì lại cho là nhiều vị Phật đã thốt lên những câu kệ đó khi
họ đạt đến được Giáo pháp giác ngộ (Toàn Tri) dưới gốc cây bồ đề. Xin đọc Rhys
Davids, Buddhist Birth stories, 103.- Ed (NXB)
[60] Dialogues, ii. 173
[61] xin đọc tr. 32
[62] xin đọc tr. 3
[63] Abhinnata
[64] Abhikkhita.
[65] Rajabhiraja. SuttaNikya đoạn 553
[66] Luật tạng (Vinaya), i. 64.
[67] Abhikkantena, Xin đọc Tương Ưng Bộ
Kinh (Samyutta) i. 1 v.v...
[68] A, i . 189
[69] Dỵgha i. 250 v.v...
[70] Những kiềm chế to lớn kể cả tội
Parajika và tội Sanghadisesa ở Luật tạng (Cuốn iii.) những tội còn lại là tội
nhẹ – tr.
[71] Xin đọc Dialogues., khế Kinh thứ
nhất.
[72] AnuTỵkā phụ hoạ thêm ‘Pháp’ chính
là việc dàn xếp chính thống các từ (saddappabandho) phải được nghiên cứu và am
hiểu với sự trợ giúp của nhiều ý nghĩa gán vào đó.; và ‘desanā’ pháp chính là
việc diễn giảng tiếp theo của các từ này để hiểu được các từ khác.
[73] (Bộ phân tích (Vibhaṅga) 293
[74] Abhilapo
[75] nghĩa rộng của từ Pativedha- Ed
(NXB)
[76] Abhisamayo. Xin đọc Sum vil. I 32
[77] Ý nghĩa thứ nhất, Pativedha được
hiểu theo nghĩa chủ động, còn ở đây là ở thể thọ động.
[78] Itivaddappamokkha
[79] Alagaddhupama-sutta. Trung Bộ Kinh
(Majjhima), i. 133 tt
[80] Nt., tr. 134.
[81] Trung Bộ Kinh (Majjhima) , i. 130 Ariyālankāra
kể lại rằng Arittha là một người Dị giáo, tại một địa điểm vắng vẻ kia đã tự
lùi bước trước những nuông chiều xác thịt và không điểm xỉa gì đến Luật tạng
(Vinaya) ông cho rằng một người đạo hữu bình thường cũng trở thành đấng Nhập
Lưu, Tư-Ðà-Hàm (Sakadagami) hay Quả Bất Lai (anagami) và các vị A-la-hán cũng
có thể nương chiều những thú vui xác thịt.
[82] Một loại chỉ biết đến điều lợi của
chính mình mà thôi, có kẻ biết sống vì điều lợi cho tha nhân, có kẻ chẳng biết
điều lợi cho bản thân mà cũng không biết đến điều tốt cho tha nhân nữa, còn
loại thú tư sống chì điều lợi cho chính bản thân và cho cả người khâc nữa. D.
iii. 232; M. i. 341; A. ii 205. đây chính là lời Ðức Phật đã nói về chân đế qui
ước được bàn thảo trong tác phẩm P of C. tr. 16 – Ed (NXB)
[83] Hay ‘do chính bản chất sai lầm hay
hạnh kiểm của người đó, như ta đọc thấy trong Saratthadipani. cũng đọc thấy
trong Duggahitena dhammena
[84] Tương Ưng Bộ (Samyutta), iii. 152
[85] Không lần ra xuất xứ ở đâu cả.
[86] Xin đọc tr. 23
[87] Học thuyết là văn chương biên soạn
(nếu không phải là văn viết) được liệt kê ra như trên trong Tam tạng (Pitakas)
td. Trung BộKinh (Majjhima).- Ed (NXB)
[88] vì Ký thuyết là khế kinh viết ở
thể kệ còn Ký Thuyết Kinh (Veyyakarana) viết ở thể văn vần hình như không nhất
thiết phải có một phần riêng biệt loại kinh như vậy. Thật tế thì, Ký Thuyết
Kinh (Veyyakarana) được áp dụng vào các khế kinh gồm có câu hỏi và câu trả lời.
– Tr.
[89] Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara) ii.
132.
[90] Trung Bộ Kinh (Majjhima) i. 299,
292; 46; Dỵgha ii. 263; Majjhma iii 99; 15.
[91] như trên
[92] Câu kệ Ananda nói về Gopaka
Moggaliana. xin xem Trung Bộ Kinh (Majjhima) iii. 7 tt
[93] Anusandhika. Anusandhika là môt
phối hợp lô-gĩ giữa các chủ đề
[94] không có trong bản Dịch của Hội
thánh điển pāli – Ed (NXB)
[95] như vậy Phân đoạn (Tīkā) giải
thích Sabbasamayikaparrisaya, ‘ ngài đã có mặt tham dự đạo hộu bốn’ theo như Ganthipađa
kể lại.
[96] (Bộ Phân Tích (Vibhaṅga), 62; 73;
90’ 112; 125
[97] Vin. iv. 144
[98] Vin. iv. 344.
[99] Tương tự như vậy, Luận sư ám chỉ,
tôi cũng chẳng cảm thấy bị xúc phạm gì khi tôi nói chu đệ đã sai làm khi được
nhận đại thọ giới. - Tr.
[100] Trung Bộ Kinh (Majjhima) , i.
218.
[101] Bhedakāravatthu, viz.:chỉ cho
thấy điều đức Phật đã nói dường như không nói. 18 được đặt ra trong luật tạng
III.266, 2.- tr. Xin đọc Vin. ii. 7 (Luật tạng (Vinaya) iii, 343; Nissayakamma xử
lý về phạm tội Seyyasaka.
[102] phủ nhận kép na... na khớp với
bài đọc trong Kinh Manidīpa. một số người đọc là ‘atthi, na catani’ v.v....
‘chắc hẳn họ đã có lời dẫn nhập và Ðức Phật đã không nói điều đó ra.
[103] xin đọc là tidivokkam. như đã
được giải thích như vậy trong do tuần xin đọc tập chú giải Pháp Cú Kinh (Dhammapada).
iii. 216.
[104] AnuTīkā lại cho là ‘Mahabhidhinidano’
(đại giác) chính là “pativedhabhumi’(cõi) là nơi Thiền định, và là Do tuần tức
cây Bồ-đề.
[105] Ngài S.Z. Aung bình luận về điều
này như sau: có nghĩa là Ðức Phật đã tiếp tục sống trong suy tư riêng của ngài
Ngài cảm nhận được ngài đông nhất với chính mình. theo ngôn từ của M. Bergson
thì Ðức Phật đã chứng ngộ được nhân cách của mình, thực tại đã được nhìn dưới
góc độ các uẩn. các xứ. v.v... và thực sự ngài đã cảm nghiệm được điều gì ngài
đã chứng ngộ được. – Tr.
[106] (Bộ Phân Tích (Vibhaṅga), 123
[107] xin đọc Vattam. - Tr
[108] (Cảm giác) thiện, bất thiện, vô
ký ‘Cần lưu ý rằng cảm giác nhờ đó Ðức Phật sống tư duy của ngài chỉ là một
phần nhỏ (padesa) thuộc toàn bộ đối tượng cảm nhận trong mỗi trường hợp như
vậy’ S.Z. Aung.
[109] Có nghĩa là Vi Diệu Pháp và các
tập chú giải. So Pyī (đọc từ Pari- thành Pavattento) Ariyakankarra giải thích rằng:
kệ Vi diệu pháp tức là tụng Giới (Sila) vậy v.v...
[110] thay vì áp dụng vào cho chúng
ta, là người có được nhân chứng về Vi diệu pháp nên chúng ta có được dẫn nhập
.- Tr.
[111] Dhs. bản đề mục
[112] còn có tên là Dhammika - Pyī
[113] Hay là Ittiya- Pyī
[114] Hay là Uttiya - Pyī
[115] Pyī cung cấp thêm ‘vattabbe’ tiếp
theo sau ‘papunissati.’
[116] Họ có được quần áo và hoa để
dành cho ngày tái sanh do hậu quả nghiệp chướng họ phải chịu. – Do tuần (yojana)
[117] Trung Bộ Kinh (Majjhima), iii,
119
[118] Tức là vương quốc Kapilavatthu,
Devadaha, Koliya – theo Ariyālankāra
[119] Tức là triết lý có được thông
qua giác ngộ.- Tr
[120] Một loại cây thuộc công viên
hoàng gia, được gọi như vậy có lẽ trên cây đó là nơi cư trú của một vị vua các
tiên nữ.
[121] Avuso