Chương
V. BẤT THIỆN NGHIỆP ÐẠO
Giờ đây chúng ta khảo sát các thuật ngữ:
(a) ‘Năm ngoại xứ, (b) ‘năm ‘xứ-môn’-, thuật ngữ (a) muốn đề cập đến tâm nhãn
thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức; còn thuật ngữ (b) muốn nói
đến các ‘Môn’ (tức là các cổng) qua đó năm môn nhãn môn, nhĩ môn, tỷ môn, thiệt
môn và thân môn được thể hiện. Ta nên hiểu cố ý nổi lên nhờ năm ‘Môn’ này như
là một hành động không thuộc thân và khẩu, nhưng là ‘môn’thuộc về ý môn.
‘Việc tiếp xúc’ nơi
con mắt, lỗ tai, lỗ mũi, lưỡi, thân và ý được gọi là sáu xúc giác. Có sáu ‘môn’
xúc là những ‘môn’ thuộc các tương quan ta thực hiện bằng nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ
xúc, thiệt xúc, thân xúc. lại có tám điều “không kiềm chế” đó là không kiềm chế
con mắt, lỗ tai, lỗ mũi, lưỡi, thân xác nhậy cảm, thân xác-vận động, khẩu và ý
Xét về góc độ nội
dung, tám điều không kiềm chế này được rút lại thành năm pháp, cụ thể là: không
giới, thất niệm, thiếu trí, thiếu kiên nhẫn, và lười biếng. Không một pháp nào
trong số đó lại [96] xuất hiện ở năm ‘môn’ trong quá trình nhận thức, sau khi
chúng đã được xác định rõ ràng. Các pháp này chỉ xuất hiện ngay vào lúc bắt đầu
qui trình tri giác. Tâm về hiện trạng ‘không-kiềm chế’ xuất hiện ngay trong qui
trình tốc lực tâm được gọi là việc ‘không-kiềm chế trong năm ‘môn’. Sự tiếp xúc
cùng-tồn tại với nhãn thức được gọi là nhãn xúc và cố ý là một ý nghiệp. Và tâm
đó (nghĩa là nhãn thức) được gọi là ‘môn’ của một ý nghiệp. Trong nhãn thức,
không có năm điều “không-kiềm chế”; sự tiếp xúc cùng-tồn ở (sát na) ‘tâm tiếp
thu’ là tâm xúc, và cố ý là một ý nghiệp. Và cũng tâm đó (tức là tâm tiếp thu)
là ‘môn’ của một ý nghiệp. Ở đây, cũng không có năm điều “không-kiềm chế.”
Tương tự như vậy đối với trường hợp ‘quan sát’ và ‘phân đoán[31]’. Tiếp xúc cùng-tồn tại với tốc lực tâm là một tâm xúc; cố ý là ý
nghiệp và tốc lực tâm là ‘môn’ của ý nghiệp đó. Ở đây, việc “không-kiềm chế” là
không kiềm chế về nhãn thức, và tương tự như vậy là phương pháp cần được áp dụng
trong ‘môn’ thuộc nhĩ môn, tỷ môn, thiệt môn và thân môn. Nhưng khi tốc lực tâm
về ‘ý môn xuất hiện, với đối tượng là một trong những đối tượng của giác quan
hoặc đối tượng khác, ảnh hưởng đến sự cử động (của thân xác), được gọi một cách
đơn giản là thân ‘môn’ (nghĩa là thậm chí không có sự trợ giúp của ‘khẩu-môn’
(cổng lời nói), thì sự tiếp xúc cùng-tồn tại với tốc lực tâm là ý xúc.
Cố ý là một hành vi
dẫn đến nghiệp. Nhưng tốc lực tâm thường xuyên không được nhắc[32] đến như là ‘ý môn’. (Ý muốn nói ở đây là) do thân nghiệp xuất
hiện, những sự xuất hiện này không phải là ‘ý môn’. Ở đây, việc “không-kiềm
chế” chính là không-kiềm chế thân nghiệp. Khi tốc lực tâm đó xuất hiện, ảnh
hưởng đến những vận động ‘khẩu-môn’ (lời nói), trong sạch và đơn giản, mà không
có ‘thân-môn’, thì sự tiếp xúc cùng-tồn tại với tâm đó chính là ý xúc.
Cố ý là một hành vi
làm xuất hiện lời nói. Nhưng tốc lực tâm thường không được gọi là ‘ý- môn’. Do
bởi vì có sự xuất hiện các vận động (của cơ quan giọng nói), nên sự xuất hiện
này không được gọi là ‘ý môn’. Ở đây, không-kiềm chế chính là không-kiềm chế
khẩu. Nhưng khi xuất hiện tốc lực tâm đó, lại không có sự trợ giúp của tay chân
và tiếng nói, với tư cách là ‘ý môn’ thuần túy, thì sự tiếp xúc cùng-tồn tại
với tâm đó chính là ý xúc.
Ýù muốn là một ý
nghiệp; tâm đó là ‘môn’ của ý nghiệp đó. Ở đây, không-kiềm chế chính lại là
công việc không-kiềm chế tâm vậy.
Những ‘môn’
không-kiềm chế nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân xác nhậy cảm, thân xác-vận động-, lời
nói và tâm, do tám hiện trạng không-kiềm chế này, nên được hiểu như là tám
‘môn’ không-kiềm chế.
Tám hiện trạng
không-kiềm chế là không-kiềm chế nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, thân xác-vận động-
lời nói và tâm. Theo nghĩa tuyệt đối, đây chính là năm nguyên lý, có nghĩa là:
trì giới, chánh niệm, trí tuệ, kiên nhẫn và tinh tấn. [97] Không thấy xuất hiện
bất kỳ nguyên lý nào trong số tám nguyên lý này trong các qui trình tâm cho đến
sát na xác định cuối cùng xuất hiện. Mặc dù xuất hiện cùng với tốc lực tâm,
việc kiềm chế này lại ám chỉ đến các ‘môn’. Chúng ta nên hiểu việc toàn bộ các
kiềm chế này xuất hiện giống như phương pháp trong trường hợp nhưng ‘không-kiềm
chế’: ‘Tiếp xúc cùng-tồn tại với nhãn thức là nhãn xúc v.v... Chính vì thế, nhờ
tám kiềm chế đó, chúng ta nên hiểu ‘kiềm chế nhãn môn” giống hệt như tám ‘môn’
kiềm chế vậy.
Mười bất thiện
nghiệp đạo là: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ
ngữ, lòng tham ác, sân ác và tà kiến.
Trong những hành vị
kể trên, ‘sát sanh’ có nghĩa là tàn sát hay giết chết các sinh vật. ‘Sinh mạng’
nói chung là một chúng sanh (nghĩa đen ám chỉ bất kỳ vật gì có hơi thở) hiểu
theo nghĩa tuyệt đối, đó là sinh linh[33] (mạng sống). Và thuật ngữ ‘sát sanh’ được
áp dụng cả trong ‘khẩu-môn’ lẫn ‘thân-môn’ nơi bất kỳ ai biết được chúng sanh
đó là một “sinh vật”, mà lại cố tình cắt đứt sinh mạng nơi chúng sanh đó. Trong
số những sinh vật gây hại [không có ích (guna)], sát sanh là một hành
động hơi xấu trong trường hợp giết hại những sinh vật nhỏ bé, còn trong trường
hợp những sinh vật lớn sát sanh quả là một hành vi vô cùng xấu xa. Tại sao vậy?
Thưa đó là tuỳ thuộc vào khối lượng nỗ lực bỏ ra và kích cỡ to lớn nơi đối
tượng bị giết hại, cho dù cố gắng bỏ ra có thể giống nhau. Trong số những người
(thực hiện sát sanh) v.v... rất có thể là những người đức hạnh, thì sát sanh
những sinh vật nhỏ gây tổn hại đến đức hạnh của họ nhỏ thôi, nhưng nếu là những
sinh vật lớn thì tổn hại gây ra đối với đức hạnh của họ càng lớn hơn. Chúng ta
nên hiểu rằng khi ích lợi Sắc bằng nhau, tội nhẹ hơn hoặc nặng hơn tùy thuộc
vào mức độ những điều gây tổn hại và nỗ lực (của người lỗi phạm) bỏ ra ít hay
nhiều. Có năm chi tạo nên mức độ nặng nhẹ ở lỗi phạm sát sanh đó phải là: - một
chúng sanh đang sống, biết rõ ràng đó là một chúng sanh có mạng sống, cố ý giết
hại, nỗ lực và hậu quả gây ra do cái chết của chúng sanh đó. Và cũng còn có sáu
phương tiện để thực hiện nỗ lực (sát sanh) đó là: - do chính bàn tay của (kẻ
sát sanh), người nào chủ mưu, phương tiện (sát sanh), mưu chước (ý đồ) lâu dài,
phương cách và nỗ lực (thực hiện sát sanh). Bởi vì luận giải chi tiết những
điểm trên sẽ rất dài dòng, thế nên chúng tôi bỏ qua phần này, cũng như những
cách giải thích khác. Những ai muốn biết đầy đủ chi tiết, xin đọc tập Chú Giải Sāmantapāsādikā về Luật Tạng[34].
‘Trộm cắp’ (adinnādāna) có nghĩa là “lấy đi thứ gì không được cho”; lấy đi thứ gì là tài
sản của người khác, trộm cướp, hoặc hiện trạng đang làm kẻ trộm. Ở đây, ‘không
được cho” ám chỉ tài sản đó thuộc sở hữu của người khác. Một tài sản được gọi
là thuộc sở hữu của người khác, có nghĩa là người sở hữu tài sản đó có thể thực
hiện bất cứ điều gì họ thích đối với tài sản đó, mà không hề bị trừng phạt hoặc
khiển trách. Ý định ăn cắp, cố gắng lấy một vật gì đó, với tâm biết rằng vật đó
[98]thuộc quyền sở hữu của người khác, những điều vừa nêu trên được gọi là
‘trộm cắp’. Và hành vi này gây ra lỗi phạm nhẹ, nếu vật thuộc sở hữu của người
khác thuộc loại tầm thường, và gây ra lỗi phạm nặng, nếu vật thuộc sở hữu của
người khác thuộc loại có chất lượng cao. Tại sao vậy? Thưa đó là do đặc tính
phẩm chất nơi đối tượng. Nếu có giá trị ngang nhau, thì lấy cắp những vật thuộc
quyền sở hữu của người có đức hạnh sẽ lỗi nặng hơn, so với việc lấy cắp những
vật thuộc sử hữu những người có ít (hay kém) đức hạnh hơn. Có năm chi tạo nên
(tội trộm cắp): - tài sản của người khác, biết rõ về vật đó có chủ, có tâm trộm
cắp, nỗ lực lấy cắp, và hậu quả gây ra. – và có sáu phương tiện thực hiện “trộm
cắp”: - tự tay lấy cắp v.v... Một trong những phương tiện này có thể được thực
hiện tùy thuộc vào hoàn cảnh, trong việc lấy cắp bằng những dụng cụ đó như: cân
đo sai lệch, bằng sức mạnh, bằng giả mạo, bằng âm mưu hoặc bằng sự mạo danh.
Ðây là một bản báo cáo phác thảo về tội trộm cắp. Bản báo cáo chi tiết xin đọc
trong Tập Chú giải Sāmantapāsādikā. (Luật tạng)
Trong cụm từ ‘tà
dâm, ‘dâm dục’ có nghĩa là ‘trong những chuyện giao cấu tính dục’; ‘tà hạnh’ có
nghĩa là ‘tính cách cơ bản và thực sự đáng khiển trách’. Ðặc điểm của ‘tà hạnh
là cố ý xuất hiện tại ‘thân-môn’, thông qua ý định không hợp pháp, qua việc xâm
phạm đến một con người mà mình không có quyền làm như vậy. Ở đây, những người
mà mình không có quyền xâm phạm đến là: (a) mười hạng phụ nữ chưa kết hôn: -
một phụ nữ còn đang dưới sự giám hộ (1) của người mẹ, (2) của người cha, (3)
của cả cha mẹ, (4) của anh trai, (5) của chị gái, (6) của họ hàng, (7) của thị
tộc, (8) của người hướng dẫn tinh thần, (9) người phụ nữ đã đính hôn, (10)
người phụ nữ đang thi hành án phạt; và (b) mười hạng phụ nữ đã kết hôn, nghĩa
là: (1) người phụ nữ được bỏ tiền ra mua, (2) người phụ nữ tự nguyện làm vợ cho
một người đàn ông nào đó, hoặc (3) do lòng ham muốn tài sản của người ấy, hoặc
(4) ham muốn có quần áo đẹp, (5) người phụ nữ do cha mẹ kết hôn cho theo đúng
luật pháp, sau nghi lễ nhúng bàn tay hai vợ chồng vào một tô nước, (6) người
phụ nữ được giải thoát khỏi tầng lớp nghèo khổ, (7) người vợ-nô lệ, (8) người
vợ-của-người -hầu, (9) người vợ là tù binh chiến tranh (bắt được trong chiến
tranh), (10) một tình nhân.
Trong số những phụ
nữ này, người phụ nữ đã đính hôn và người phụ nữ đang bị phạt tù, cùng với hạng
người phụ nữ trong loại (b): - nam giới không được đến gần mười hạng phụ nữ
này. Và tội phạm nặng hơn hoặc nhẹ hơn, tùy thuộc vào cảnh phụ nữ cấm đoán đó
có được nhân đức nhiều hay ít, cụ thể là tuân giữ Giáo pháp. Có bốn chi tạo
thành tội này: chủ tâm hưởng lạc với đối tượng bị cấm, nỗ lực gắng đạt được sự
hưởng lạc đó, những thủ đoạn nhằm đạt được và chiếm đoạt người phụ nữ đó. Và
chỉ có một phương tiện duy nhất đó là: kinh nghiệm cá nhân.
‘Vọng ngôn’ được áp
dụng trong thân nghiệp và khẩu nghiệp, đối với người nói dối, để làm hại đến
của cải của người khác. Ýù muốn đưa ra đầy đủ nỗ lực của bản thân và lời nói để
lừa dối, với ý đồ lừa đảo người khác, [99] được gọi là ‘vọng ngữ.’ Một định
nghĩa khác nữa: - ‘Dối’ áp dụng với điều không xác thực hay không tồn tại, và
‘Nói’ có nghĩa là dùng lời nói mà trình bày điều đó là đích thực và tồn tại.
Ðặc điểm của ‘lời nói dối’ hoặc ‘nói lời sai trái’ hay ‘cách cư xử sai trái’ là
cố ý của một người mong muốn trình bày cho người khác một điều không có thật
như là điều xác thực, điều này đưa đến một sự gợi ý tương ứng. Lỗi phạm này
nặng hoặc nhẹ, tùy thuộc vào niềm vui bị tổn hại lớn hơn hoặc nhỏ hơn do ‘nói
dối’ tạo ra. Hoặc nói cách khác: Ðây chỉ là một lỗi nhẹ trong trường hợp những
người bình thường, nếu họ nói một điều không có thật: -‘Tôi không có cái đó’ –
vì không muốn cho đi một thứ gì đó của chính họ; và là một lỗi nặng nếu, với tư
cách là chứng nhân, họ khai man nhằm mục đích gây thiệt hại (cho người khác).
Ðối với những người sống xa cách mọi người, đây là một lỗi nhẹ nếu, bằng cách
nói đùa trong khi chỉ xin một ít bơ hoặc dầu, người đó nói rằng: - ‘Theo ý tôi,
hôm nay, có một con sông đầy dầu tuôn chảy trong làng’. Tuy nhiên, đó lại là
một lỗi nặng đối với những người nói rằng họ đã nhìn thấy một điều gì đó mà họ
không hề thấy’. Có bốn chi tạo nên lỗi phạm này đó là: điều không có thật, ý đồ
lừa đảo, nỗ lực tương ứng, truyền đạt vấn đề cho những người khác. Chỉ có một
phương tiện duy nhất đó: hành vi của cá nhân; và chúng ta nên hiểu về hành vi
này như là hành động lừa dối người khác bằng thân thể, hoặc bằng cách nào đó
liên quan đến thân thể[35], hoặc bằng lời nói. Nếu bằng hành động
đó, người khác nhận biết được ý nghĩa của hành động đó, thì lúc đó, cố ý tạo ra
hành động đó liên kết với hành động dối trá. Tương tự như vậy đối với một người
lừa dối người khác bằng hành vi, bằng một cách nào đó liên kết với hành vi này,
hoặc bằng lời nói; cũng tương tự như vậy, đối với một người xúi giục người khác
‘Hãy nói điều đó với anh ta’, hoặc đặt một chiếc lá có viết chữ trước mặt một
người khác, hoặc ghi một hàng chữ cố định trên những bức tường v.v... với mục
đích ‘Chúng ta nên hiểu ý nghĩa này theo cách đó’, như vậy cũng là lừa dối
người khác. Do đó, thật hợp lý khi khẳng định là những cách ghi chép mang tính
cách xui giục, truyền đạt và cố định cũng liên quan đến hình thức bất thiện
này. Nhưng khi những bài bình luận không thừa nhận điều này, thì chỉ nên thông
qua sau khi đã xem xét phê bình mà thôi.
‘Lưỡng thiệt’ có
nghĩa là lời nói đặt điều, khi nói điều gì đó với một người khác, làm tổn hại
đến lòng quý mến và tôn trọng của người bị vu khống, hoặc chính người nói lời
vu khống đó cũng bị tổn hại đối với một nhân vật thứ ba.
Ác khẩu[36] làm cho chính bản thân người nói trở nên lỗ mãng, hoặc làm cho
người khác trở nên thô bỉ, tự bản thân lời nói đó là chói tai, không dễ nghe và
cũng không thu thập được nhân tâm. Một lời nói như vậy được gọi là ‘ác khẩu’.
‘Ỷ ngữ’ là nói những
điều vô nghĩa, vô ích. Ở đây, được hiểu là cố ý nằm sâu trong tất cả những lời
nói thuộc loại này và được gọi là cách nói vu khống v.v... Với tâm đồi bại, một
người cứ cố gắng dùng lời nói và thái độ để gây mất hòa khí giữa những người
khác, hoặc để làm cho người khác quý mến mình, điều đó được gọi là cố ý nói lời
vu khống. [100] Lỗi này nặng hay nhẹ, tùy theo người bị chia rẽ có đức độ nhiều
hơn hoặc ít hơn. Có bốn nhân tố tạo nên tội này: (1) Chia rẽ người khác; (2) có
mục đích: ‘họ sẽ bị chia rẽ’, hoặc mong muốn cho bản thân mình được người khác
quý mến; (3) cố gắng tương ứng; (4) truyền đạt thông tin. Nhưng khi không gây
ra sự tuyệt giao, thì sự vi phạm rốt cuộc không phải là một cách giải quyết đầy
đủ; chỉ khi có sự tuyệt giao, thì mới đúng là sự vi phạm.
‘Ác khẩu[37]’ có nghĩa là với cố ý hoàn toàn nhẫn tâm, cố gắng dùng lời nói và
thái độ để gây đau khổ cho người khác bằng một vết thương chết người[38]. Câu chuyện sau đây là một minh họa: Một cậu bé không vâng lời
mẹ, đã đi vào rừng. Không ngăn cản được con trai, bà nói rằng: ‘Giá mà có một
con trâu rừng rượt đuổi nó!’ . Và một con trâu đã xuất hiện theo đúng ý nguyện
của bà. Cậu bé quả quyết một sự thật rằng ‘Mong sao lời mẹ mình nói không xảy
ra; giá mà xảy ra điều mẹ mình nghĩ trong tâm!’. Con trâu đứng trân như chết
khiếp[39] tại đó’. Do đó, mặc dù nỗ lực qua lời nói của bà làm tổn thương
cực kỳ, tuy nhiên, lời nói của bà không thực sự độc địa, bởi vì tấm lòng của bà
nhân hậu. Bởi vì đôi khi, các bậc cha mẹ thường nói kiểu này với con cái của họ
‘Giá mà bọn cướp cắt tụi con thành từng mảnh!’ Tuy nhiên, họ không mong muốn, thậm
chí một chiếc lá sen rơi xuống trên con cái họ. Thỉnh thoảng, các thầy giáo và
những người hướng dẫn tinh thần cũng nói với các học sinh của họ ‘Chúng ta phải
làm gì cho bọn học trò trơ trẽn, khinh suất này? Cứ tống cổ chúng đi thôi!’
Nhưng tuy nhiên, họ vẫn mong muốn rằng các học sinh của họ có thể thành đạt và
hoàn tất công việc học hành. Nhưng bởi vì nếu có trái tim nhân hậu, thì những
từ ngữ không thể trở nên cay nghiệt được, cũng vậy, phải chăng họ không phải là
người hòa nhã chỉ vì lối nói thiếu mềm mại của họ. Lời nói của một người có ý
muốn giết hại: ‘Hãy cứ để cho anh ta ngủ thoải mái!’ không hề thiếu nhẹ nhàng;
bởi vì với tư tưởng cay nghiệt, thì từ ngữ hẳn là lỗ mãng. Lời nói cay nghiệt
cân xứng với cách cư xử của một người nói những lời chói tai. Ba nhân tố tạo
nên lối nói xúc phạm này là: Người bị xỉ nhục, tư tưởng bực dọc, và sự xỉ nhục.
Cố ý bất thiện tạo
ra lời nói và thái độ truyền đạt những điều vô ích, được gọi là ‘nói chuyện phù
phiếm’. Lỗi phạm này nặng hay nhẹ tùy thuộc vào việc phạm phải những lỗi phạm
đó một cách lập đi lập lại nhiều lần hay là không. Hai chi tạo nên lỗi phạm này
là: khuynh hướng nói những điều vô bổ - chẳng hạn như những câu chuyện về cuộc
chiến đấu Bharatas và việc bắt cóc Sita[40] v.v... và việc thuật lại những chủ đề này.
Nhưng lỗi phạm không diễn ra xuyên suốt quá trình hành động, nếu những người
khác [101] không chấp nhận câu chuyện; chỉ khi nào họ chấp nhận, thì mới đúng
là có lỗi phạm.
‘Lòng tham ác’ có
nghĩa là lòng tham lam: một quá trình nhắm chiếm đoạt tài sản của người khác
khi đối mặt với tài sản đó. Lòng tham có dấu hiệu suy nghĩ đặc trưng như ‘A!
giá mà món đồ đó thuộc về mình!’. Lỗi vi phạm này nặng hay nhẹ tùy thuộc vào
trường hợp hành vi trộm cắp xảy ra sau đó. Hai chi tạo nên lỗi phạm này là: Tài
sản thuộc sở hữu người khác và khuynh hướng của bản thân. Mặc dù xuất hiện lòng
tham đối với món tài sản vốn là của người khác, nhưng vẫn chưa phân biệt được
quá trình đầy đủ của hành động, chừng nào người ta không có khuynh hướng nói là
‘A! giá mà món đồ đó thuộc về mình!’.
YÙù muốn làm tổn hại
đến sự thịnh vượng hay hạnh phúc được gọi là ‘Sân ác. Ý đồ này có dấu hiệu đặc
trưng là lỗi phạm về tinh thần, gây tổn hại đến những người khác. Mức độ lỗi
phạm tùy thuộc trường hợp lối nói độc địa là như thế nào. Hai chi tạo nên lỗi
phạm này là: Người khác và cố ý làm hại. Chỉ có tức giận với người khác mà
thôi, thì chưa đạt đến giai đoạn phân biệt qui trình hành động[41], chừng nào không có ý làm hại, chẳng hạn như ‘Cầu cho hắn ta bị
chết đột ngột và bị tiêu hủy!’.
‘Tà kiến’ có nghĩa
là nhìn nhận một cách sai lệch, bằng cách không chấp nhận chánh kiến. Ðặc điểm
của tà kiến là những cái nhìn sai lệch, chẳng hạn như ‘Một món quà tặng không
có (ích lợi) gì cả’. Và lỗi phạm nặng hay nhẹ tùy thuộc vào trường hợp lối nói
phù phiếm đó, hoặc tùy thuộc vào tà kiến mang tính tạm thời hay lâu dài. Hai
chi tạo nên lỗi phạm này là: sai lệch về cách nhìn nhận một đối tượng và cách
thể hiện sự sai lệch này tùy thuộc vào tà kiến trái ngược với quan điểm này.
Sau đây là quan điểm đạt đến giai đoạn phân biệt được quá trình hành động: (1)
không có kết quả (trong một nghiệp thiện); (2) không có nguyên nhân
(nơi những điều xảy ra); (3) không có hành động (thiện), và không do
những quan điểm khác.
Với mười bất thiện
nghiệp đạo, chúng ta có thể đi đến những quyết định liên quan tới chúng theo
năm khía cạnh, nghĩa là: (1) với tư cách là những nhân tố tâm lý cơ bản (2) với
tư cách là các nhóm, (3) với tư cách là những đối tượng, (4) với tư cách là cảm
thọ, (5) với tư cách là nguồn gốc[42] (căn). (1) Theo thứ tự là những nghiệp
đạo, bảy nhân tố đầu tiên chỉ là những cố ý mà thôi; ba quá trình bắt đầu bằng lòng
tham ác là những nhân tố liên kết với ý muốn. (2) bảy nhóm đầu tiên và những tà
kiến– tám nhóm này là những nghiệp đạo, không phải là nguồn gốc. Nhưng cả lòng
tham ác lẫn sân ác đều là những nghiệp đạo và nguồn gốc. Với tư cách là nguồn
gốc, tham ác là nguồn gốc Bất thiện tham, với tư cách là nguồn gốc, sân ác là
nguồn gốc Bất thiện sân. (3) Hành vi sát sanh có một sự vật nhân duyên làm đối
tượng, vì hành vi sát sanh này có mạng sống làm cảnh. Hành vi trộm cắp có chúng
sanh hoặc sự vật làm đối tượng. Tà dâm có sự vật làm điều kiện và làm đối
tượng, hoặc theo như một số người nói, đó là do tiếp xúc với một chúng sanh.
Vọng ngôn cũng có một chúng sanh hay một sự vật nhân duyên làm đối tượng. Lưỡng
thiệt cũng y như vậy. Ác khẩu chỉ có đối tượng là chúng sanh. Ỷ ngữ có cả chúng
sanh lẫn sự vật nhân duyên làm đối tượng, bằng cách thấy, nghe, cảm thọ và ý.
Tương tự như vậy đối với tính tham ác. Sân ác có đối tượng là chúng sanh và tà
kiến có cảnh là sự vật nhân duyên ở ba cõi. (4) Hành vi sát sanh liên quan đến
thọ khổ. Bởi vì mặc dù là nhà vua, khi nhìn thấy một tên trộm, vẫn có thể vừa
nói vừa cười mà rằng ‘Nào, hãy giết chết hắn ta đi!’, ý định chỉ liên kết với
thọ khổ mà thôi. Hành vi trộm cắp có thể liên kết với ba loại thọ. Khi nhìn
thấy tài sản thuộc sở hữu của người khác, tên trộm sẵn sàng vớ lấy với thọ lạc;
nếu hắn ta ăn cắp tài sản này trong nỗi sợ sệt, thì hắn có thọ khổ; hắn có cảm
giác tương tự như vậy, nếu hắn ăn cắp trong khi suy nghĩ về những hậu quả sẽ
xảy ra. Nếu hắn ăn cắp một cách hững hờ, thì đó là thọ xả (phi lạc phi khổ). Tà
dâm liên kết với hai loại thọ lạc hoặc thọ xả; nhưng trong ý tưởng quyết định,
không có thọ xả. Vọng ngôn có cả ba loại thọ giống như hành vi trộm cắp; lưỡng
thiệt cũng y như vậy. Ác khẩu liên kết với thọ khổ; ỷ ngữ có cả ba loại thọ. Ðể
minh họa: - Khi người dẫn chuyện kể lại câu chuyện bắt cóc Sita, hoặc cuộc
chiến đấu Bharatas v.v... cử tọa vỗ tay hoan hô và ném những chiếc khăn của họ
lên trời v.v..., đối với người dẫn chuyện, có một thọ lạc và dễ chịu. Sau này,
khi có một người đã từng khen thưởng tiến lên và nói ‘Xin kể lại cho chúng tôi
từ đầu đi’, người dẫn chuyện không hài lòng với đề nghị này và suy nghĩ rằng
‘Liệu mình đã nói điều gì đó không xác đáng và lảm nhảm chăng?’. Trong trường
hợp như vậy, thọ khổ trong lúc kể chuyện sẽ xuất hiện; nếu người dẫn chuyện cảm
thấy không hưng phấn trong khi kể chuyện, một thọ xả sẽ diễn ra. Tham ác có hai
thọ, lạc và xả; tương tự như vậy đối với những tà kiến. Sân ác sẽ tạo ra một
thọ khổ. (5) Hành vi sát sanh có hai nhân, do sân và si; hành vi trộm cắp cũng
xuất phát từ hai căn nguyên, do sân và si, hoặc do tham với si; tà dâm cũng có
hai căn nguyên, do tham và si; cũng thế, vọng ngôn là do sân và si, hoặc do
tham và si mà ra; tương tự như vậy đối với lưỡng thiệt và ỷ ngữ. Ác khẩu do sân
và si, và tham ác do lừa dối, đều có duy nhất một căn nguyên; tương tự như vậy
đối với sân ác. Tà kiến có hai nhân là tham và si.
Ðến đây, kết thúc Bất Thiện Nghiệp Ðạo.