Chương III. TAM ÐẠO VÀ TỨ ÐẠO
Nơi[68] Tam đạo ta thấy có câu
‘nhằm đoạn trừ hoàn toàn ...’ có nghĩa là nhằm mục tiêu cắt đứt hoàn toàn những
‘Kiết sử’ đã được giảm nhẹ thông qua đạo Nhất Lai.
Nơi[69]
Tứ đạo, câu ‘nhằm đoạn trừ hoàn toàn sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, phóng dật, vô
minh’ có nghĩa là nhằm mục tiêu cắt đứt hoàn toàn năm ‘thượng phần kiết sử’. Ðề
cập đến những kiết sử này. Sắc ái chính là ái dục tái hiện cõi sắc giới. Vô sắc
ái được hiểu là những ái dục được tái hiện hữu nơi cõi vô sắc. Ngã mạn ở bậc
A-la-hán đạo đoạn trừ hoàn toàn.[240] Cũng như vậy đối với phóng dật và vô minh.
Nơi hai Ðạo này thì quyền thứ chín, chính là tri cụ trí quyền.[70]
Nơi toàn
bộ Bát Chánh Ðạo, căn cứ theo thứ tự các thuật ngữ, có cả thảy sáu mươi thuật
ngữ được sử dụng. Cộng với bốn chi tuyệt đối toàn bộ gộp lại thành sáu mươi bốn
thuật ngữ. Có ba mươi ba thuật ngữ hoàn hảo trọn vẹn. Các phân đoạn bàn về các
nhóm (uẩn) và (trống rỗng) vẫn giữ nguyên số lượng như cũ. Lại có tới cả một
ngàn phương pháp thuộc mỗi nhóm nơi Nhị đạo, v.v... cũng như Sơ Ðạo. Như vậy
Pháp Vương có chỉ cho thấy Bốn Ðạo được sắp xếp thành bốn ngàn phương pháp.
Trong Ðế
Phân Tích[71] (Saccavibhanga) những điểm siêu thế thuộc sáu mươi ngàn phương
pháp đã được đề ra thông qua cách thức nơi bốn Ðạo (hay một ngàn phương pháp
này), chính vì thế cũng đã có những điểm tương tự như hai mươi ngàn phương pháp
đã được nêu lên trong Niệm Xứ Phân Tích (Satipatthana Vibhanga), hai mươi ngàn
phương pháp trong Chánh Cần Phân tích (Sammāppadhana), ba mươi hai ngàn phương
pháp trong Như ý túc phân tích (Iddhippada), ba mươi hai ngàn phương pháp trong
Giác Chi Phân Tích (Bojjhanga vibhanga), hay hai mươi tám ngàn phương pháp
trong Ðạo Phân Tích (Maggavibhanga). Nhưng có bốn ngàn phương pháp trong bốn
đạo (Jhana) đã được thiết lập trong Dhammasangani. Ngoài bốn Ðạo trong sơ Ðạo
thuộc đệ nhất Thiền (Jhana) có tám chi thiền đã được sắp loại. Ta cũng thấy y
hệt như vậy trong Ðạo thứ hai v.v...
Trong
Ðạo thứ nhất ta thấy chánh kiến loại bỏ tà kiến; do đó với chánh tư duy, v.v...
nên được hiểu theo nghĩa loại bỏ những điều ngược lại. Ðiều này diễn ra như
vậy, vì có tới sáu mươi hai phái tà thuyết[72] phải được loại bỏ trong số ba
đạo cao hơn. Thế thì bằng cách nào chánh kiến lại được đề cập đến trong
đó[73]?’ Vì không hiểu có nổi lên độc dược hay không, tức là có một cách giải
độc được gọi là thuốc giải độc, chính vì thế cho dù có tà kiến hay không, chánh
kiến vẫn là chánh kiến. Nếu như vậy, thì chánh kiến chỉ nên coi như là một tên
gọi mà thôi và không có nhiệm vụ gì trong ba đạo cao hơn, và các chi Ðạo có thể
không được hoàn thành; chính vì thế thật thích hợp thấy rằng chánh kiến làm
tròn chức năng của mình và giúp cho các chi đạo được hoàn thành. Nhưng nơi ba
đạo cao hơn thì chánh kiến nên được tỏ cho thấy nó còn có nhiệm vụ gắn liền với
những gì đã nắm bắt được. Nói rộng ra: ngã mạn cần phải được tiêu diệt nơi ba
đạo cao này. Ngã mạn này có một vị thế nhất định nơi tà đạo. Vì thế mà chánh
kiến đã loại bỏ được ngã mạn này. Do đó đạo chính là chánh kiến. Vì nơi đạo
Nhập Lưu chánh kiến đã loại bỏ được tà kiến. Ngoài ra chính ngã mạn nơi Ðấng
Nhập Lưu lại do đạo nơi Ðấng Nhất Lai tiêu diệt, và ngã mạn đó đã chiếm một vị
trí nơi tà đạo vậy. Chánh kiến đã loại bỏ được ngã mạn đó. Do đó chánh kiến
chính là chánh kiến, chỉ có Ðấâng Nhập lưu mới có được ý định cùng tồn tại với
bẩy (trong số mười hai loại) tâm Bất thiện,[74] nhờ vậy mà đã xảy ra nhiều khẩu
nghiệp, thân nghiệp, và thọ hưởng các vật dụng, [241] đồng sanh với cố
gắng[75], là bản chất nội tâm thất niệm, câu hành với nhất tâm. Tất cả những
hiện trạng này [khởi sự với tư duy hay suy nghĩ] được gọi là tà tư duy v.v...
Nơi đạo Nhất Lai chánh tư duy v.v... được gọi là việc loại bỏ những hiện trạng
đó, tức là tà tư duy, v.v... Chính vì thế, nơi đạo Nhất Lai, tám chi đạo xuất
hiện bằng cách thực hiện nhiệm vụ của chính mình.
Ðấng
Nhất Lai có ngã mạn cần phải được tiêu diệt do Tam đạo và ngã mạn này lại thấy
xuất hiện nơi tà đạo. chỉ có ý định của Ðấng Nhất Lai v.v... do bởi cùng tồn
tại với bẩy loại tâm Bất thiện [được biết đến như là tà tư duy, v.v...] bằng
cách loại bỏ khỏi những loại tâm này thì việc thực hiện những nhiệm vụ do tám
chi đạo thuộc Tam đạo nên được hiểu là như vậy.
Ðấng Bất
Lai cũng có ngã mạn cần phải được tiêu diệt bằng đạo A-la-hán và ngã mạn này
cũng có chỗ đứng nơi tà đạo. Nhưng tà tư duy, v.v... cùng tồn tại với năm loại
tâm Bất thiện,[76] mà chỉ có Ðấng Bất Lai mới có, lại được biết đến như là tà
tư duy, v.v... Bằng cách loại bỏ khỏi những hiện trạng sai lầm đó, thì việc
thực hiện chính những nhiệm vụ do tám chi đạo thuộc bậc A-la-hán nên được hiểu
rõ hơn.
Sơ Ðạo
xuất phát từ Bốn Ðạo phân biệt rõ Tứ Diệu Ðế. Cũng được phân biệt rõ ràng nơi
Ba Ðạo cao. Ðạo tiếp theo không liên quan đến bất kỳ điều gì cũng được nhận
thấy rõ nơi Sơ Ðạo. Bài Pháp này thường được các Luận sư chấp nhận. Nhưng một
thành viên[77] khác lại cho biết trong số những đạo đó ta nhận ra được điều gì
không thể thấy được nơi Sơ Ðạo. Có người hỏi ông. ‘thế quyền nào nơi Sơ đạo đã
được ngài chọn ra. [như đang thực hiện chức năng ở đây.]? nếu ngài biết rõ hẳn
ngài đã trả lời. ‘Ðó chính là tín quyền., “tri vị tri quyền.[78]” và khi người
ta hỏi ngài, ‘quyền nào nơi đạo cao này ngài sẽ sắp xếp?” tri cụ tri quyền ngài
sẽ trả lời. ‘nếu ta nhận ra đôi điều gì đó không được thấy rõ nơi sơ đạo, bạn
phải sắp xếp ngay tín quyền, “tri vị tri quyền.”[đây là điều đặc biệt nơi Sơ
Ðạo] cũng dưới góc độ ba đạo cao, để điều đó có thể ăn khớp với câu hỏi.’ Ngài
sẽ lại hỏi thêm. ‘liệu có đạo nào khác loại bỏ được những điều Phiền não khác
hay không?’ hay là những điều Bất tịnh đã được loại bỏ?’ Khi ngài được hỏi để
biết, ‘có đạo nào loại bỏ được các Phiền não khác chăng, ‘ngài liền nói thêm,
‘nếu có một đạo khác loại bỏ được các Phiền não chưa hề được loại bỏ, thì ta
cũng [nhờ đó] thấy được chân đế chưa từng được thấy nơi sơ đạo này.’ có người
sẽ hỏi thêm, ‘có bao nhiêu chân đế?’ nếu ngài biết rõ, ngài sẽ trả lời, ‘có
bốn,’ ngài lại được hỏi thêm., ‘nơi học thuyết của ngài đã nói đến con số mười
sáu”chân đế” cơ mà. Bạn thấy được các chân đế chưa từng thấy được ngay cả ở nơi
chư Phật. Hẳn bạn đã là một người nhận ra biết bao nhiêu là “Chân Ðế.” Xin chớ
có bám lấy quan điểm như vậy. Chẳng có gì mới mẻ trong việc nhận ra các chân đế
đâu. Nhưng ta loại bỏ những Phiền não vẫn chưa được loại bỏ.’
[242] Về
vấn đề chẳng có gì mới mẻ trong việc nhận ra Chân đế, có dụ ngôn “cái giỏ” đã
được chú ý tới: - Họ kể lại rằng có một người kia giữ bốn chiếc giỏ kho báu tại
một căn phòng đựng kho tàng rộng lớn. Vào ban đêm có một số thương gia quan tâm
đến các kho tàng này xuất hiện, người đó liền mở cửa, bật đèn lên và, khi đèn
đã đẩy lùi bóng tối, người ta nhận thấy rõ những giỏ đựng bảo vật đó, ông liền
thực hiện nhiệm vụ của mình, là đóng sập cửa lại rồi ra đi, và bóng đêm lại lan
toả trở lại.. lần thứ hai và lần thứ ba cũng như vậy ông ta đều hành động giống
như thế. Khi đến lần thứ tư, lúc cánh cửa mở toang ra, ông ta liền đi tìm kiếm
những chiếc giỏ vô hình nơi bóng tối, và nhìn kìa mặt trời ló dạng. Lúc đó ánh
sáng chói chang đã đẩy lùi bóng tối. Người đó lại thực hiện công việc với các
giỏ đựng bảo vật và ra đi. trong câu chuyện dụ ngôn này, bốn giỏ đựng bảo vật chính
là Tứ Diệu Ðế; thời gian mở cửa cho một số thương gia giống như thời gian được
sử dụng để nhập Thiền quán đối với đạo Dự Lựu; bóng tối giống như sự tối tăm
bao trùm lên Chân Ðế; ánh sáng của ngọn đèn chính là ánh sáng thánh đạo dự lưu;
bóng tối bao trùm giống như việc thể hiện chân đế đối với thiền quán đối với
đạo. và chân đế được thể hiện nơi thiền quán đối với đạo cũng chính là việc thể
hiện chân đế cho những người được phú bẩm đạo đó. Thời gian ra đi của người
canh giữ giỏ châu báu sau khi kết thúc nhiệm vụ giống như sát na diệt của đạo
nhập lưu sau khi đã thực hiện được phần việc của mình là diệt trừ những điều
Phiền não đó. Việc bóng đêm bao trùm trở lại giống như bóng tối đã bao trùm
chân đế trước đó và cả ba đạo cao hơn đã loại bỏ được. Vào lúc mở cửa lần thứ
hai giống như sát na đã được sử dụng để kết thúc thiền quán đối với đạo (nhất
lai), ánh sáng bóng đèn giống như ánh sáng đạo Nhất Lai sau khi đã hoàn thành
phần việc của mình trong sự diệt trừ những Phiền não; việc bóng đêm bao trùm
chân đế và bị tiêu diệt ở hai bậc đạo cao và lần mở cửa thứ ba giống như sát na
sử dụng thiền quán đối với tam đạo; ánh sáng bóng đèn giống như tam đạo; thời
gian ra đi sau khi thực hiện xong công việc canh giữ các giỏ đựng châu báu
giống như sát na diệt của tam đạo sau khi đã thực hiện xong phần diệt trừ tất
cả những Phiền não; việc bóng tối bao trùm trở lại giống như bóng đêm bao phủ
chân đế và đạo cao A-la-hán tiêu diệt. Vào thời điểm mở cửa lần thứ tư giống
như sát na tận dụng hết được thiền quán thuộc đạo A-la-hán; việc mặt trời ló
rạng giống như đạo A-la-hán đã được tạo ra; việc bóng tối tan biến giống như
việc đẩy lùi bóng tối bao phủ Chân đế ở đạo A-la-hán; [243] Việc thể hiện các
giỏ đựng châu báu đối với một người ngay vào lúc bóng tối biến mất giống như việc
thể hiện Tứ Diệu Ðế đối với thiền quán xuất hiện nơi con người; thời điểm bắt
đầu ra đi sau khi công việc canh giữ các giỏ châu báu đã kết thúc giống như
việc loại bỏ toàn bộ những điều Phiền não do đạo A-la-hán thực hiện. Cho đến
thời điểm này dụ ngôn chứng tỏ rằng: chẳng có gì mới mẻ được thêm vào sau khi
Chân Ðế đã được nhận ra, đối với Ba Ðạo cao được phân biệt trong đó chỉ có Sơ
Ðạo được nhận ra mà thôi.
Liên
quan đến một ‘đạo khác nữa loại bỏ được các điều Phiền não khác,’ dụ ngôn kể về
sà bông giặt đồ được ứng dụng ở đây: - Một người nọ đem đồ dơ đến người giặt
ủi. Người này đã ngâm đồ dơ vào ba loại sà bông khác nhau gồm có: bột đất chứa
muối mặn, chất bồ tạt và bột phân. Khi người đó đã khẳng định là mọi chất kiềm
đã bị loại bỏ, liền đem quần áo đi giũ lại trong nước để loại bỏ đi những chất
bẩn thô thiển nhất. Thế rồi biết được các bộ đồ dơ đó chưa thực sự sạch hoàn
toàn, người đó lại dùng cả ba loại sà bông lần thứ hai, rồi lại giũ quần áo dơ
đó trong nước sạch và loại bỏ những vết bẩn tinh tế hơn. Khi biết được chúng
vẫn chưa sạch hoàn toàn. Người đó lại dùng sà bông lần thứ ba và giũ quần áo dơ
trong nước sạch và loại bỏ những vết dơ tinh tế nhất. Khi biết được quần áo vẫn
chưa sạch hoàn toàn. người đó liền dùng đến sà bông lần thứ tư, rồi lại giũ
quần áo trong nước sạch để loại bỏ toàn bộ những vết bẩn trong từng thớ vải. Và
rồi trao quần áo cho chủ. Người này lại đem cất trong một ngày ướp nước hoa và
đem ra mặc theo như ý muốn. Ở đây quần áo dơ giống như tâm con người từ bấy lâu
nay đã theo đuổi những điều Phiền não; thời gian dùng ba loại sà bông giống như
thời gian tạo ra việc làm trong ba lần nhận rõ; việc loại bỏ chất bẩn thô thiển
nhất sau lần giũ nước sạch được so sánh với chính là việc loại bỏ năm loại
Phiền não do Ðạo Nhập Lưu thực hiện. Việc dùng sà bông lần thứ hai chính là qui
trình công việc trong ba lần nhận thức rõ ràng để biết được tâm vẫn chưa được
Thanh tịnh hoàn toàn sạch sẽ; việc loại bỏ các vết bẩn tinh tế hơn trong trường
hợp thứ nhất giống như việc loại bỏ từng cặp ‘kiết sử’ thô do Ðạo Nhất Lai thực
hiện; việc dùng ba loại sà bông khi được biết quần áo vẫn chưa sạch hết hoàn
toàn, [244] giống như giai đoạn công việc trong việc áp dụng ba nhận thức rỏ
ràng được biết do tâm chưa được tẩy sạch hoàn toàn; việc loại bỏ những vết bẩn
tinh tế hơn giống như một cặp ‘kiết sử’ tế hơn do Tam đạo thực hiện. Việc dùng
sà bông khi được biết là toàn bộ quần áo chưa được giặt sạch hoàn toàn giống
như qui trình công việc nơi ba việc nhận thức rõ được biết là tâm vẫn chưa hoàn
toàn được tẩy sạch. Việc loại bỏ những vết bẩn nơi từng thớ vải bằng một lần
giặt tiếp theo giống như việc loại bỏ tám loại Phiền não do Ðạo A-la-hán thực
hiện. Việc bận quần áo sạch vào bất kỳ thời điểm nào theo ý muốn giống như dùng
những chiếc đĩa bạc và được cất giữ trong tủ tẩm thuốc thơm, giống như cuộc
sống ở bất kỳ thời điểm nào theo ước muốn khi đã đạt đến được Chánh Quả do tâm
hoàn toàn trong sạch được Thanh tịnh khỏi những Phiền não. Như vậy đó là tiến
trình của dụ ngôn nêu trên. ‘Các bạn thân mến, khi quần áo đã cũ và bẩn thỉu,
và ông chủ đưa cho người giặt ủi ngâm và tẩm ba loại sà bông, gồm có chất đất
mặn, bột tẩy, và bột phân, và giũ trong nước sạch; cho dù quần áo có trở nên
sạch sẽ một mùi rất tinh tế của bột muối, chất tẩy rửa và bột giặt vẫn không thể
nào được loại bỏ hết. Người thợ giặt ủi đến gặp ông chủ, ông này đang để bộ đồ
trong tủ ướp nước thơm và những mùi bột mặn, chất tẩy và bột giặt vẫn chưa được
loại bỏ hết.- Chính vì thế các bạn thân mến, cho dù vị thánh đệ tử đã loại bỏ
hết cả năm hạ phần kiết sử. vẫn tồn tại trong người đệ tử đó phần còn lại trong
số năm thủ uẩn thuộc ngã mạn “là tôi’ do ước muốn[79] mà có. Vì “là tôi” nơi
các tùy miên “là tôi”[80] tiếp đến người đó lại tiếp tục sống trong nhận thức
rõ ràng về sanh và diệt của năm thủ uẩn và kẻ nào sống như vậy lại nhận thức rõ
‘đây chỉ là những sắc” ‘đây là sự tập khởi chúng’ ‘và đây lại là đoạn diệt.’
Ðây chính là thọ... đây chính là tưởng’... đây chính là hành.’ đây chính là
thức.’... đây chính là sự tập khởi của thức.’ ‘đây chính là sự đoạn diệt của
thức.’ và phần còn lại tinh tế, lại thuộc về người ấy. Phát xuất từ năm thủ uẩn
nơi ngã mạn do ‘là tôi’ do khát ái ‘là tôi’ nơi ái dục và ngã mạn tùy
miên ‘là tôi’’ được hoàn toàn loại bỏ. [245]Nói về Bốn Ðạo, thông qua những
thành tố tâm, Ðạo Dự Lưu đã đoạn trừ được năm loại tâm Bất thiện, cùng với các
pháp ác nổi lên; Ðạo Nhất Lai, thông qua những thành tố tâm đã được giảm nhẹ
hai loại tâm câu hành ưu, cùng với các pháp ác nổi lên; Tam đạo đã được cùng
hai loại tâm cùng và các pháp tương ưng; Ðạo A-la-hán, thông qua các thành tố
tâm đã đoạn trừ được năm loại tâm Bất thiện cùng với các pháp ác nổi lên. Xuất
phát từ thời điểm khi mà hai loại tâm Bất thiện đã được đoạn trừ thì chẳng còn
cái gọi là Phiền não nào có thể nổi lên nơi một vị A-la-hán thông qua bất kỳ
yếu tố tâm nào cả.
Ðây là
một ví dụ điển hình dùng để dẫn chứng: - Người ta kể lại có một nhà vua vĩ đại
đã đặt lính canh phòng cẩn mật tại vùng biên giới tổ quốc và ngài đã sinh sống
tại Thủ Ðô hưởng thọ mọi vinh quang phú quí nơi vương quyền của mình. Thế rồi
giặc giã phản loạn đã nổi lên tại vùng biên cương tổ quốc. Vào thời đó có mười
hai tên tướng cướp đầu sỏ cùng với nhiều ngàn người đang cướp phá vương quốc.
Các vị tướng lãnh liền báo cáo về kinh đô cho nhà vua:- Muôn tâu hoàng thượng,
vùng biên cương vương quốc đang nổi loạn chống lại bệ hạ.” Nhà vua liền cử sứ
giả đến báo rằng, ‘hãy triệt hạ quân cướp không một chút do dự.’ Ta sẽ trọng
thưởng công việc của các khanh.’ Trận ra quân đầu tiên các vị tướng lãnh quân
đội đã triệt phá được năm tên tướng cướp đầu sỏ cùng với nhiều ngàn quân lính
của bọn chúng. Còn lại bẩy tên tướng cuớp khác liền kéo quân lính tiến về vùng
rừng núi cố thủ. Nhà vua lại sai người báo sự việc xảy ra. Nhà vua liền gửi tới
một kho báu, nói rằng, ‘ta sẽ tưởng thưởng cho các ngươi; hãy bắt sống các tên
tướng cướp đầu sỏ đó.’ cuộc ra quân thứ hai các vị quân thần nhà vua đã chiến
thắng được hai tên đầu sỏ tướng cướp và hạn chế được (giảm thiểu) sức mạnh của
thuộc hạ bọn chúng. Toàn bộ bọn chúng chạy trốn và lánh mặt vào vùng rừng núi
hiểm trở. Họ lại gửi xứ giả thông báo sự việc xảy ra cho nhà vua và ngài lại
gửi đến cho họ một kho báu nữa hạ chỉ nói rằng, ‘hãy bắt hết bọn chúng không
khoan nhượng!’ vào cuộc ra quân thứ ba các tướng lãnh quân đội đã giết được hai
tên đầu sỏ tướng cướp khác nữa cộng với các đồng bọn, và rồi lại thông báo cho
nhà vua biết sự việc đã diễn ra. Nhà vua lại gửi đến một kho báu khác nữa hạ
chỉ nói rằng, ‘Hãy bắt hết các tên còn lại không chậm trễ!’ Cuộc ra quân tấn
công lần thứ tư họ giết được năm tên đầu sỏ tướng, chẳng còn tên nào dám hành
động nhân danh bất kỳ một tên cướp nào nữa sau cái chết thảm của mười hai tên
đầu sỏ tướng cướp đó. Toàn cõi vương quốc trở nên thái bình thoát khỏi mọi hiểm
nguy và thần dân sống trong yên ổn bồng bế con cái nhẩy múa ca hát trong cảnh
thái bình. Và chung quanh nhà vua bao vây toàn là những vị anh hùng dân tộc
[246] đang vui hưởng vinh quang phú quý nơi hoàng cung lộng lẫy. Ở đây nhà vua
vĩ đại giống như Ðấng Pháp Vương (King of law); các vị tướng thống lãnh đang
trấn giữ các vùng biên cương được ví như các thiền sinh (aspirants) theo đuổi
cuộc sống ẩn cư, mười hai tên đầu sỏ tướng cướp giống như mười hai loại tâm Bất
thiện,[81] rất nhiều thuộc hạ của bọn chúng giống như các pháp ác nổi lên thông
qua các sở hữu tâm; thời gian thông báo các cuộc phản loạn tại biên cương vương
quốc cũng giống như thời gian các vị Luận sư được nhắc đến, khi mà các điều
Phiền não nổi lên có liên quan đến một đối tượng: Tâu bệ hạ. Các điều Phiền não
đang diễn ra trong tôi.’; kho báu được ban tặng kèm với một sứ giả;’ hãy bắt
các tên cướp không chậm trễ.’ Giống như việc loan báo một giai đoạn trong cuộc
sống ẩn cư do chân lý vương loan báo ‘hỡi chư vị Tỳ-khưu, hãy từ bỏ các điều
Phiền não.’; thời gian hạ được năm tên đầu sỏ tướng cướp cùng với các thuộc hạ
của bọn chúng giống như việc triệt hạ được năm loại tâm Bất thiện cộng với các
pháp tương ưng nơi đạo Nhập Lưu. Việc loan báo tiếp theo tiến trình cho nhà vua
giống như việc tường trình cho đức Phật Tối Cao về các việc công đức đã đạt
được, việc ban tặng các kho báu trở lại, nói rằng, ‘hãy bắt cho được những tên
cướp còn lại’ giống như việc loan báo thuộc Thiền định ở Bậc Nhất Lai do đấng
Chí Tôn chỉ thị, việc hạn chế sức mạnh của hai tên đầu sỏ tướng cướp cùng với
các thuộc hạ ở lần ra quân thứ hai giống như việc giảm nhẹ hai loại tâm thọ ưu
cộng với các pháp tương ưng thông qua đạo Nhất Lai; việc tường thuật trở lại
tiến trình chiến đấu cho nhà vua giống như Vị Luận sư đầy công đức (tức Ðức
Phật) đã chiếm lãnh được, việc ban tặng kho báu một lần nữa, phán rằng hãy bắt
cho được các tên cướp không chậm trễ, cũng giống như việc Ðức Thế Tôn loan báo
Thiền quán ở Tam đạo; việc triệt hạ được hai tên tướng cướp đầu sỏ cùng với bọn
thuộc hạ vào trận ra quân lần thứ ba cùng với các thuộc hạ bọn chúng giống như
việc triệt hạ được hai loại tâm cùng với các pháp tương ưng thông qua đạo ở tam
đạo; việc tường thuật tiến trình giao tranh cho nhà vua giống như việc Ðấng Như
Lai (Tathagata) chiếm đoạt được nhiều công đức; việc ban tặng trở lại một kho
báu, nói rằng. ‘Hãy bắt cho được bọn chúng không chậm trễ’ giống như việc Ðức
Thế Tôn loan báo Thiền quán ở bậc A-la-hán; thời gian bảo đảm an toàn cho các
làng mạc thị trấn sau khi đã triệt hạ được hết năm tên đầu sỏ tướng cướp cùng
với bọn thuộc hạ của chúng ở lần ra quân thứ tư giống như việc một pháp bất
thiện không còn khả năng nổi lên nữa. Thông qua một sở hữu tâm sau khi đã đoạn
trừ được mười hai loại tâm Bất thiện, khi năm loại tâm Bất thiện còn lại cùng
với các pháp tương ưng thông qua Ðạo A-la-hán được đoạn trừ; việc nhà vua được
hưởng vinh quang to lớn nơi hoàng cung tráng lệ bao quanh là các vị anh hùng
cận thần và thần dân của ngài trong cảnh thái bình giống như [247] tận hưởng
niềm vui vô tận do việc đạt đến bất kỳ thành tích nào do ba chánh quả đem lại,
ngài có ý muốn nhắc đến: - Không tánh (emptiness), Vô tướng (animitta) và vô
nguyện (achanda) – thông qua Ðấng Pháp Vương có các vị A-la-hán bao vây xung
quanh.
(Ðến đây
kết thúc việc chú giải các từ ‘tâm thiện.’)