Chương II.
MẪU ÐỀ NHỊ
Trong Mẫu đề, đề cập về những Mẫu đề nhị, chúng ta
sẽ bình luận về những từ không nằm trong các Mẫu đề tam đã bình luận đến ở
trên.
Trước hết, trong Nhóm-Nhân (Condition Group)[57], Pháp Nhân (hetu Dhammā) là các pháp được gọi là
những nguyên nhân (đặc biệt) theo nghĩa các căn nguyên duyên khởi (roots). [47]
Thuật ngữ ‘phi nhân’ được sử dụng để loại bỏ các nguyên nhân trên.‘Hữu nhân’ có
nghĩa là ‘xảy ra cùng với những căn nguyên duyên khởi bằng cách tương ưng’.
‘Phi nhân’ có nghĩa là ‘không có những căn nguyên khởi xảy ra cùng một cách tương
tự như vậy. Những pháp tương ưng với các căn nguyên bằng cách có chung một
nguồn gốc v.v... được coi là có ‘tương ưng với những nguyên nhân’các pháp tách
biệt khỏi các căn nguyên đó được gọi là ‘bất tương ưng với những căn nguyên đó.
Mặc dù không có sự khác biệt về mặt ý nghĩa giữa hai loại Mẫu đề nhị (nghĩa là
‘Hữu nhân và ‘tương ưng với những nguyên nhân), từ đó, chúng đã được xác định
rõ một phần nào, bằng cách tô điểm cho đẹp thêm bằng những Pháp, và một phần
bằng cách đáp ứng nhu cầu cho các vị đã đạt đến giác ngộ. Tiếp theo sau Mẫu đề
nhị vừa đề cập đến bằng cách phối hợp với Mẫu đề nhị thứ nhất, thứ hai và thứ
ba. Ba Mẫu đề nhị khác nữa cũng được đọc lên đúng theo phong cách cần thiết, nhờ
những thuật ngữ như ‘nhân’ và ‘phi nhân v.v... Trong trường hợp này, như cụm từ
‘cả những pháp nhân lẫn hữu nhân’ đều xuất hiện trong kinh văn, cũng chính vì
thế ‘các pháp nhân và vô nhân’ có thể được tạo thành tương tự như vậy. Hơn nữa,
một khi ‘các pháp hữu nhân nhưng phi nhân xuất hiện thì cũng vậy các pháp phi
nhân nhưng không có nhân có thể được tạo mới như vậy. Trong việc liên kết
(những nguyên nhân duyên khởi và những phi nguyên nhân) với Mẫu đề nhị nói về
việc ‘tương ưng với những nguyên nhân duyên khởi.’
Cho dù cách diễn giải, ‘các pháp nào phi nhân mà
hữu nhân duyên hoặc vô nhân duyên có thể đáp ứng đủ với một cụm từ đặc biệt
được sử dụng như ‘Nhưng quả thật’ khi cụm từ này được dùng trong kinh văn như,
‘Nhưng quả thật các pháp nào phi nhân v.v... Ta nên hiểu rằng ý nghĩa bổ sung
lại bao hàm trong việc sử dụng cụm từ này. Bằng cách nào vậy? Không chỉ có các
pháp phi nhân (hetu) được phân loại thành hữu nhân nhân hoặc nhân, nhưng các
pháp khác cũng được phân loại như vậy. Không chỉ có vậy, chẳng phải chỉ có loại
nguyên nhân trước đó mới được phân loại như vậy, mà cả những nguyên nhân khác
cũng có thể phân loại theo cách đó. Ý muốn nói ở đây là: chỉ có các pháp nào phi
nhân khởi mới được coi là hữu nhân hay vô nhân, mà ngay cả các pháp nhân nữa.
Lại nữa, chính vì những nguyên nhân trước đó được phân loại theo các pháp có
thể phân loại thành hữu nhân hoặc vô nhân, nên chúng có thể được phân loại bằng
cách ‘tương ưng nhân, và ‘nhân.. Ðó là ý nghĩa đặc biệt.
Trong Mẫu đề nhị nói về giáo pháp tiểu đỉnh (Lesser
Intermediate) diễn ra trong mối tương quan hệ với đầy đủ duyên hệ hoàn chỉnh
riêng biệt, thì được gọi là ‘hữu duyên’. các pháp nào không có bất cứ duyên hệ
nào vào thời điểm hình thành hoặc thời gian tồn tại thì được gọi là ‘tuyệt đối’
(hay ‘vô duyên). ‘Hữu vi’[58] nghĩa là được thực hiện
do sự trùng lắp với nhau trong các tương quan nhân quả. ‘Vô vi’ có nghĩa là
không được thực hiện hoặc không có tương quan.
Các pháp (hoặc bộ phận) nào có những thuộc tính Sắc
trong một hiện trạng không thể phân lý được, thì được gọi là ‘Sắc[59]’. Các pháp nào không có những thuộc tính phẩm chất
Sắc, thì được gọi là ‘phi Sắc’. Hoặc, các pháp nào có đặc tính Sắc mang đặc
điểm luôn biến đổi về mặt thể lý, thì được gọi là ‘Sắc’. Các pháp nào không
thay đổi, thì được gọi là ‘phi Sắc’.
Trong cách diễn đạt ‘các pháp hiệp thế’, ‘vòng luân
hồi (round of rebirth) được gọi là ‘thế gian’ (loka), do đặc tính phân huỷ và
mỏng dòn của nó (lujjana,v.v...) Các pháp nào liên kết với cõi trần thế này
được gọi là các “pháp hiệp thế[60]”. [48] Ðể vượt ra
ngoài hiện trạng ‘phàm tục’, nhất thiết phải là phi phàm tục (tức là không
thuộc cõi đời này), nghĩa đen là nằm ‘ngoài tầm quan sát.’ Các pháp đã vượt ra
khỏi cõi ‘phàm tục,’ không còn tồn tại trong đó nữa, lại được gọi là cõi ‘siêu
thế’ (nghĩa đen là cõi ưu việt’[61])
Ðặc tính ‘nhận biết được hoặc bất kỳ ai cũng nhận
ra’ nghĩa là có thể nhận thức được v.v... bằng bất kỳ cách nào do nhận thức hay
nhãn thức... Phần ngược lại tiếp theo đó và hoàn tất nhị đề.
Trong Nhóm Lậu hoặc (Intoxicant-group), ‘Lậu hoặc
là ‘những thứ tuôn trào ra[62]’, nghĩa là tuôn trào và
xuất hiện từ các căn và tâm. Hoặc, ta có thể định nghĩa những Phiền não như là
những sự kiện, giống như các pháp ‘tuôn trào ra.’ Có nghĩa là chúng xuất hiện
bằng cách giữ cho các pháp[63] này luôn được tồn tại
trong giới hạn thế gian. Thật ra, tiếp đầu ngữ ā trong từ āsava (Lậu hoặc) được
sử dụng theo nghĩa ‘luôn tồn tại trong Lậu hoặc). Hoặc, giống như nước ép của
những trái cây madira[64] v.v... trở thành những chất
say bằng cách lên men trong một thời gian, chính vì thế những pháp nào giống
như những chất say này được gọi lậu hoặc ‘āsava’. Người ta quen gọi những loại
rượu vang madira được ủ men trong một thời gian v.v... là những chất say. Nếu
nhờ quá trình lên men trong một thời gian dài, nên chúng được gọi là những chất
say, thì các pháp tâm này cũng xứng với danh xưng đó. Bởi vì trong Kinh tạng có
câu: ‘Nầy chư Tỳ-khưu, chẳng có điểm vô minh tột bực nào lại rõ ràng cả, chính
vì thế, người ta có thể nói “đã có thời chẳng còn vô minh”‘. Hoặc ‘những Phiền
não là các pháp đưa đến kết quả hoặc gây ra đau khổ nơi đại dương tái sanh
(ocean of births) trong một thời gian. Các pháp nào khác với các pháp này là
phi lậu. Các pháp ‘cảnh lậu’ là các pháp xảy ra cùng một lúc với những lậu hoặc
nẩy sinh, với chính bản thân chúng (các pháp cùng cảnh lậu) làm đối tượng[65]. Các pháp nào không có những lậu hoặc (làm chủ thể), đều
là phi cảnh lậu. Chúng ta nên hiểu phần còn lại như đã được giải thích trong
Nhân Duyên (Conditon-group) nhưng với điểm khác biệt này là: Trong nhóm đó, ta
có kệ hai câu cuối cùng ‘Nhưng quả thật các pháp nào phi nhân (root-condition),
thì đều có hữu nhân hoặc vô nhân’ bằng cách đặt thuật ngữ thứ hai của Mẫu đề
nhị đầu tiên vào phần mở đầu; nhưng ở đây trong nhóm này, không có Mẫu đề nhị
cuối cùng nào như ‘Bây giờ, các pháp phi lậu có hoặc không có những lậu hoặc’
được trình bày một cách rõ ràng. Mặc dù không được diễn tả ra như vậy, nhưng
Mẫu đề nhị này và những sự phân biệt khác đều sẽ được hiểu như đã được đề cập
đến trước đây.
Trong nhóm-Kiết sử (Fetter-group), các pháp cột
chặt hay trói buộc nơi vòng luân hồi tái sanh (rounds of births) liên tiếp người
nào tồn tại trong hiện trạng đó được gọi bị ‘kiết sử’ bị ‘triền’. Các pháp khác
với các pháp này được gọi là ‘phi kiết sử’. Các pháp đã trở thành đối tượng
giác quan, giúp những kiết sử kiềm chế này phát triển bằng cách liên kết với
điều đó thì được gọi là ‘cảnh kiết sử’[66]. Ðây là tên
dành cho những đối tượng có những kiết sử kiềm chế. Các pháp nào không phải là
đối tượng giác quan, được gọi là ‘phi cảnh kiết sử’. [49] Chúng ta nên hiểu
phần còn lại giống như cách thức như trong nhóm Nhân (Conditon-group).
Trong nhóm-phược (Knot-group), Các pháp nào nối kết
hoặc ràng buộc trong vòng luân hồi tái sanh liên tiếp nơi kẻ nào tồn tại trong
đó bằng cách sinh và diệt, được gọi là ‘phược’. Các pháp khác được kể là hiện
trạng ‘phi phược’. Các pháp vướng mắc hoặc bị trói buộc bằng những ràng buộc do
trở thành đối tượng, thì được gọi là ‘cảnh phược’. Phần còn lại nên được hiểu
theo cùng một cách thức như trong nhóm-Nhân (Conditon-group). Cùng một cách am
hiểu thông qua những quan hệ mật thiết cần được theo dõi đối với điều chưa được
nói ra nơi các cặp khác.
Trong nhóm-Bộc Lưu (Flood-group)[67]
Các pháp nào khiến ta phải lặn hụp hoặc bị nhận chìm xuống trong chính cái vòng
luân hồi tái sanh liên tiếp nhiều lần, thì được gọi là ‘những bộc lưu’. Các
pháp nào có khả năng trở thành giống như những đối tượng bị những bộc lưu này
tràn ngập gọi là bị cảnh bộc lưu’. Chỉ[68] nên coi Giáo
pháp nào là đối tượng của bộc lưu mà thôi.
Trong nhóm-phối (Yoke-group), Các pháp nào gông ách
cột cổ con người trong vòng luân hồi tái sanh liên tiếp được gọi là ‘phối.’
Chúng ta nên hiểu khả năng ‘cảnh phối’ theo cùng một cách thức như đã nói ở
trên.
Trong nhóm-Cái (Hindrance-group), Các pháp nào cản
trở trí tuệ con người được gọi là ‘các pháp cái’. Chúng ta nên hiểu khả năng
‘cảnh cái’ theo cùng một cách thức như đã nói ở trên..
Trong nhóm-Khinh thị (Reversion-group)[69], Các pháp nào vượt khỏi ngưỡng cửa vô thường v.v...
là hiện trạng đích thực nơi vạn vật. bằng cách thừa nhận vạn vật đều là vô thường
v.v... và luận giải chúng một cách ngược lại, ta gọi đó là ‘khinh thị’. Những
gì là đối tượng giác quan được luận giải một cách khinh thị như vậy được gọi là
cảnh khinh thị’.
Trong những kệ thuộc loại Ðại Ðỉnh (Greater
Intermediate), Các pháp nào được gọi là “hữu cảnh”[70] ngay
từ lúc xuất hiện chung với những đối tượng khác, vì Các pháp này không thể tồn
tại mà không có đối tượng đi kèm. Các pháp nào không có đối tượng thì được gọi
là ‘vô cảnh. ‘Tâm’(citta) được coi như là một chủ thể như vâỵ, ngay từ trong tư
tưởng về đối tượng đó, hoặc giả tư tưởng đã được đa dạng hoá (citta, citra). Các
pháp nào liên kết với tâm một cách bền vững (không tách rời được) được gọi là
có ‘sở hữu tâm’. Các pháp nào hòa lẫn với tâm ngay từ giai đoạn phôi thai, được
gọi là ‘tương ưng với tâm[71]’. Các pháp nào hoàn toàn
hoà lẫn với tâm ngay từ giai đoạn mới xuất hiện (sanh) cho đến lúc kết thúc
(diệt) được gọi là ‘hoà với tâm’ Các pháp nào không hoàn toàn hòa trộn trong
tâm, được gọi là ‘không hòa với tâm’.
Một số hiện trạng qua đó một vài vật nổi lên được
gọi là ‘nguồn gốc’. Các pháp có tâm là ‘nguồn gốc’ được gọi là những vật được
‘tâm sở cảnh[72]’ mà ra.
Các pháp nào diễn ra đồng thời với nhau được gọi là
‘đồng hiện hữu’. Các pháp nào diễn ra đồng thời với tâm, thì được gọi là đồng
hiện hữu với tâm’.
Các pháp nào luôn đi kèm với Các pháp khác, được
gọi là ‘những tiếp nối không thể tránh khỏi’. Ði kèm với gì vậy? Thưa với tâm.
Các pháp đó được gọi là ‘tùy chuyển với` tâm’
Các pháp nào hoàn toàn hòa trộn với tâm và xuất
phát từ tâm mà ra, được gọi là ‘hóa sở sanh với tâm’.
[50] Các pháp nào hoàn toàn hòa trộn với tâm, từ
tâm mà ra và phát sinh cùng với tâm, lại được gọi là ‘hóa sở sanh đồng hiện hữu
với tâm trong hóa sở sanh đồng hiện hữu với tâm. Các pháp nào hoàn toàn hòa
trộn với, cùng xuất phát và luôn đi kèm theo với tâm, được gọi là ‘hóa sở sanh
tùy chuyển với tâm’ mà ra.
Toàn bộ những thuật ngữ còn lại nên được hiểu ngược
lại với những thuật ngữ đã được giải thích ở trên.
Ðối với những điều đã đề cập đến trong Mẫu đề tam
về ‘nội’, liên quan đến sáu căn, chỉ có những giác quan ‘chủ quan’ này được gọi
là ‘nội phần’. Các pháp nào ở bên ngoài Các pháp này được gọi là ‘ngoại phần’.
(Các pháp hoặc những đặc tính Sắc nào) gắn kết với
Bốn đại hiển[73], nhưng không gắn chặt vào những thành
tố đi với tư cách là những Ðại hiển, thì được gọi là ‘y sinh’. [Các pháp] nào
không chỉ gắn chặt với, mà còn bị gắn chặt[74], thì
được gọi là ‘phi y sinh’.
Trong nhóm-Thủ (Grasping-group), Các pháp nào gắn
chặt với (những đối tượng giác quan) theo nghĩa nắm thật chắc, thì được gọi là
‘Thủ’. Các pháp nào khác với chúng, thì được gọi là ‘không tham lam.’
Trong nhóm-Phiền não (Corruption-group) chúng ta
nên hiểu ý nghĩa của từ này theo cùng một cách thức giống như trong Mẫu đề tam
nói về ‘hư hỏng thối nát’.
Trong các Mẫu đề nhị Thế giới[75],
Các pháp nào hầu như thường xuyên tồn tại nơi giác quan, thì được gọi là dục
giới (Kamavacara). Nói chung Các pháp nào thường xuyên đụng chạm với Sắc, thì
được gọi là sắc giới (Rūpāvacara)[76]. Các pháp nào
mang tính cách vô hình, thì được gọi là cảnh vô sắc giới (ārūpāvacara). Ðây chỉ
là một khía cạnh trừu tượng thuộc các Mẫu đề nhị Cuối Cùng. Mẫu đề chi tiết sẽ
xuất hiện sau này. Các pháp nào bị giới hạn hoặc bao hàm nơi vòng Luân Hồi Sinh
Tử thuộc bộ ba cảnh giới hiện hữu, được gọi là ‘hệ thuộc’(included). Các pháp
nào không bị giới hạn như vậy, thì được gọi là ‘phi hệ thuộc’(Uincluded). Các pháp
nào, đang cắt khỏi các căn nguyên Bánh Xe Luân hồi sinh tử (round of repeated
births) liên tục và biến Niết Bàn thành đối tượng, thì thoát khỏi các vòng luân
hồi sinh tử đó được gọi là ‘dẫn (thoát) ra ngoài’. Các pháp nào không vượt ra
khỏi theo cách thức này, thì được gọi là ‘phi dẫn xuất’. Có điều chắc chắn là
sẽ mang lại kết quả ngay tức khắc sau khi chết, hay sau chính việc hiện tượng
được đó xuất hiện, các hiện tượng như vậy được gọi là ‘cố định’[77]. Các pháp nào không chắc chắn xảy ra theo cách tương
tự như vậy, thì được gọi là ‘phi cố định’.
Các pháp nào vượt xa Các pháp khác, được gọi là
‘cao thượng’. Các pháp nào nổi lên cùng với ‘Các pháp cao thượng’, có khả năng
vượt xa Các pháp đó, thì được gọi là ‘hữu thượng’. Các pháp nào không được như
vậy được gọi là ‘vô thượng’.
Các pháp nào gây cho các chúng sanh phải than vãn khóc
lóc, được gọi là ‘tác hại[78]’. trong đó tham dục chế
ngự hoàn toàn các hữu thể này, và như vậy khiến cho chúng phải than vãn khóc
lóc bằng nhiều cách khác nhau. ‘Tác hại’ là tên để gọi tham dục như vậy v.v...
Các pháp nào nổi lên cùng với những điều tác hại đó (như là nguyên nhân đau
khổ) nhờ liên kết và cùng xác minh chung nơi cùng một đương sự thì được gọi là
“hữu tranh’. Các pháp nào không có những nguyên nhân tác hại như vậy, thì được
gọi là ‘vô tranh’.