Chương III. NHỮNG
ÐẶC TÍNH CỦA SẮC Y SINH
Ðến đây trong hai tập tóm
lược[26] ngài nói rằng, ‘Ðiểm đặc trưng của sắc (vật chất) có phải là sắc y
sinh (derived matter) không? và v.v... Như vậy nhờ chứng minh cách phân tích
các từ tiếp theo sau thắc mắc, vì những nét đặc trưng đã được phát hiện, có
nghĩa là: ‘Có sắc y sinh và phi sắc y sinh đã tồn tại’. Ở đây sắc y sinh
(derived) thành do thủ.[27] Ý nghĩa sắc y sinh (derived) ở đây là chấp thủ (Sắc
Tứ Ðại), không bỏ qua,[28] như vậy sắc y sinh hay sắc thành do thủ, bắt nguồn
từ việc phụ thuộc trên những sắc y sinh này.
[306]
Ðến đây để chứng tỏ sắc y sinh theo những điểm đặc trưng đa dạng của nó. Ngài
nói. ‘nhãn xứ.’ v.v... sau khi đã chỉ ra sắc y sinh dưới hai mươi ba loại, và
rồi chứng minh điểm này một cách chi tiết, ngài lại cho biết. ‘Sắc nào” là nhãn
xứ[29]?’ Trong khi đó ‘con mắt’ (nhãn) gồm có hai yếu tố: - nhục nhãn (con mắt
trần) và trí nhãn (mắt trí khôn). Trong đó riêng về trí nhãn lại có năm yếu tố
– Phật nhãn, toàn tri nhãn, trí nhãn, thiên nhãn, và Pháp Nhãn. Ðề cập đến
những loại nhãn này, có đoạn viết như sau: - Hỡi chư vị Tỳ-khưu, đang lúc quan
sát thế gian với Phật nhãn, Như Lai đã nhìn thấy chúng sanh chỉ là những hạt
bụi Phiền não trong con mắt họ... chúng sanh ngoan ngoãn và cứng đầu, cứng cổ.
[30] Ðề cập đến ‘Phật nhãn’... đặc tính toàn giác được gọi là toàn tri
nhãn.[31] Ðây là đặc tính thuộc ‘toàn tri nhãn’ nhãn nổi lên, minh nổi lên’
[32] Ðây là trí nhãn. ‘hỡi chư vị Tỳ-khưu, với con mắt siêu nhiên được Thanh
tịnh qua thực tế ta đã thấy.[33] Ðây chính là thiên nhãn, ‘Ngay tại nơi toạ lạc
đó, Pháp nhãn thanh tịnh, vô tỳ vết nổi lên[34]. – đây chính là Pháp nhãn, gồm
tóm trong ba đạo đầu tiên.
Còn nữa,
có hai loại con mắt trần: có nghĩa là., một xứ tổng hợp, và một xứ thanh triệt.
Trong đó, mắt là một cục thịt nằm trong lỗ con mắt bao quanh là xương hũng mắt,
có con mắt nằm trong đó, ngay chỗ xương đó có lông mày ở trên, có đuôi mắt ở
hai bên, có khối óc ở bên trong, lông mày ở bên ngoài. Có mười bốn yếu tố cấu
thành: tóm tắt như sau, bốn giới sắc khí vị, bản chất dinh dưỡng, cách sắp xếp
theo thứ tự, ngoại hình, mạng quyền, thiên nhiên, da nhậy cảm, nhãn thanh
triệt. Sắp xếp theo chi tiết, có bốn yếu tố và sáu loại sau đây phụ thuộc vào
bốn yếu tố này: - màu sắc, khí, vị, tính chất dinh dưỡng ngoại hình và sắp xếp
theo thứ tự. Mười loại này đều do nguyên nhân mới có thể xuất hiện được, làm
thành bốn mươi. Bốn loại nữa, tức là mạng quyền, thiên nhiên, da nhậy cảm, nhãn
thanh triệt phải do nghiệp chướng mà xuất hiện. Như vậy [307]bốn mươi bốn đặc
tính sắc làm thành bốn mươi bốn yếu tố cấu thành. Cho dù con mắt thấy vạn vật
có màu trắng, có độ lớn nào đó, có trải rộng, bề dầy, nhưng chúng không hề biết
đến nhãn thanh triệt thực sự. Nhưng ở đây mới chỉ xét trên bình diện vật lý
những điều đó mà thôi một khối thịt nằm trong hố mắt lệ thuộc vào bộ não nhờ
vào những bộ gân hay dây chằng. Trong đó có mầu trắng, mầu đen, mầu đỏ, trường
độ, sự va chạm, sức nóng, và chuyển động. Con mắt trở nên trắng vì có quá nhiều
dỉ mắt. Trở thành đen do cáu ghét. Ðỏ do mầu máu, cứng rắn do địa giới. Lỏng do
thủy giới, nóng do hỏa giới. Và nhấp nháy do phong giới. Con mắt là một bộ phận
phức tạp biết bao. Và bộ phận thanh triệt toạ lạc trong đó phụ thuộc vào con
mắt được gọi là nhãn thanh triệt vì nó phát xuất từ Sắc Tứ Ðại mà ra. Trong[35]
qui trình thấy tại nơi xuất hiện hình ảnh thân hình những người đang đứng ngay
ở trước mặt ta. Ở giữa một bề mặt tròn phẳng bao quanh là những vòng tròn màu
trắng các bộ phận cấu thành. Bộ phận thanh triệt thâm nhập vào các màng mắt
giống như dầu được rải thấm vào bẩy sợi bấc đèn bằng bông. Và được bốn yếu tố
sử dụng để thực hiện nhiệm vụ duy trì, nối kết, hoàn thiện và rung động. Giống
như một cậu hoàng tử được bốn người hầu trông coi thực hiện nhiệm vụ bồng bế,
tắm rửa, mặc quần áo và quạt mát cho cậu. Và vì được nâng lên nhờ vào định luật
quý tiết. Nhờ tâm và chất dinh dưỡng và được cuộc sống bảo vệ và lại chú tâm
đến mầu sắc, khí, vị v.v... xét về góc độ kích thước nhãn thanh triệt đó chỉ
lớn hơn đầu một con rận và đang phải chu toàn nhiệm vụ cơ bản làm vật và môn
của nhãn thức v.v... như đã được đề cập đến trong Phật Pháp[36] như sau: -
Nhờ nhãn
thanh triệt,
Ta thấu hiểu được đối tượng, chỉ một vật nhỏ xíu
Lại vô cùng tinh vi và chỉ bằng đầu[37] một con rận
Từ
Cakkhāyatanam có nghĩa là Nhãn Xứ.[38] Trong câu ‘vì mắt là một thanh triệt
xuất phát từ Sắc Tứ Ðại .’ Sở hữu cách được dùng ở đây hiểu theo nghĩa mục
đích. Thanh triệt khởi xuất một việc chấp thủ lấy Sắc Tứ Ðại chính là ý nghĩa ở
đây. Qua cách diễn đạt này ngài chỉ chú ý đến thanh triệt mà thôi và loại bỏ ra
ngoài còn lại nhãn xứ thanh triệt. Nhưng trong kinh Indriyagocara[39] thì thanh
triệt xuất hiện vì xuất phát từ một sắc đại, [308] lại là yếu tố mở rộng, được
giữ vững đến như vậy nhờ ba sắc đại hiển khác còn lại đó là: kết dính, sức nóng
và chuyển động. Trong Kinh Catuparivatta[40] thanh triệt khởi xuất khi xuất
phát từ hai Sắc Ðại thuộc các yếu tố mở rộng và kết dính và được hai sắc đại
sức nóng và chuyển động giữ vững. Hai câu kệ này đã được thực hiện để giải
thích, và Bài Pháp giống như một bài kinh lại mang tính diễn giải. Thanh triệt
xuất khởi khi xuất phát từ Sắc Tứ Ðại là điều có thật trong bất kỳ Kinh Phật
nào hay trong cả hai Kinh đều có. Như vậy theo cách đó ta nhận ra Phật Pháp
trong hai kinh này. Nhưng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) lại được diễn giải mà không
có bất kỳ một sự giải thích nào cả. Chính vì thế ở đây ta nghe nói: thanh triệt
cũng phát xuất từ Sắc Tứ Ðại.
Vì chúng
sanh vô minh đã chấp thủ. Chính vì thế thân xác này, hay là một tập hợp ngũ uẩn
chính là ‘bản ngã’ của tôi.’ Chính vì thế ngay cả cái khung sắc thân và ngũ uẩn
được gọi là ‘hiện trạng bản ngã’ (self-state = attabhava) tức là cá nhân là
phần vậy.
‘Gộp tóm
trong cá nhân và bao gồm trong đó lại phụ thuộc vào chính nội phần đó.
‘Ðiều vô
kiến” là điều gì đó không thể thấy được bằng nhãn thức.
‘Hữu đối
chiếu’: tức là phản ứng, va chạm được tạo ra ở đây.
‘Nhờ
đó,” v.v...: ngắn gọn, có nghĩa là, con mắt này chính là nguyên nhân được trao
cho một người trong quá khứ đã nhìn thấy một cảnh sắc đã được xác định hay hiện
đang tiến hành nhìn thấy đối tượng đó, hay trong tương lai sẽ nhìn thấy đối
tượng đó. Nếu con mắt còn nguyên vẹn thì người đó có thể nhìn thấy cảnh sắc đó
một khi đối tượng xuất hiện nơi tiêu điểm, hoặc người đó đã có thể nhìn thấy
một đối tượng trong quá khứ với một đối tượng đã đi vào quá khứ. Người đó nhìn
thấy một vật ở hiện tại bằng một con mắt hiện tại. Người đó sẽ có thể nhìn thấy
một vật trong tương lai thông qua một con mắt trong tương lai. Nếâu đối tượng
đề cập đến xuất hiện nơi tiêu điểm con mắt, người đó có thể nhìn thấy đối tượng
bằng chính mắt của mình: - Ở đây câu văn được viết ở thể điều kiện.
‘Hơn nữa
đây là nhãn,’ ám chỉ cách hướng dẫn mắt.’
‘và đây
là nhãn xứ,’ ám chỉ nguồn gốc và cách sắp xếp theo thứ tự.
‘và đây
là nhãn giới,’ ám chỉ sự trống rỗng về bản chất, và về thực thể.
‘và đây
là nhãn quyền,’ ám chỉ việc thiết lập quyền được coi là một đặc tính cốt yếu
nơi thị lực.
‘và đây
là thế giới,’ ám chỉ tính cách nhất thời ngắn ngủi, tính chất có thể bị diệt
‘và đây
là môn.’ ám chỉ đây là một lối vào.
‘và đây
là đại dương,’ ám chỉ là nơi không thể lấp đầy được.
‘và đây
là đặc tính sáng ngời,’ vì đặc tính này rất tinh khiết.
‘và đây
là một phạm vi,’ ám chỉ nguồn gốc tiếp xúc v.v...
‘và đây
là vật,’ ám chỉ một điểm toạ lạc cố định giúp cho chủ thể chứng tỏ đâu là mức
độ tiêu chuẩn đâu là không. Ðiều này được giải thích rõ do từ ‘hướng dẫn’ và
theo ý nghĩa đó cũng còn là sự hướng dẫn.’
[309]
‘và đây là bờ bến bên này.’ ám chỉ điều được bao gồm nơi một cá nhân.[41]
‘và đây
là một ngôi làng trống vắng,’ ám chỉ đây là điều phổ biến đối với nhiều người
và ám chỉ sự thiếu vắng người làm chủ ngôi làng này.[42]
Ở mức độ
ta liên kết mười bốn tính ngữ này bắt đầu với câu ‘hơn thế nữa đây chính là
nhãn,’ với bốn từ bắt đầu với ‘ngài đã nhìn thấy’ thì bốn phương pháp
định rõ đã được giải thích. Bằng cách nào thế? Thông qua con mắt vô kiến đó và
hữu đối chiếu lại người ấy đã nhìn thấy một cảnh sắc và cũng hữu đối chiếu lại.
Và đây chính là nhãn. - Và đây chính là ngôi làng trống vắng. Cảnh sắc như thế
chính là nhãn xứ. Ðây là một phương pháp. Chính vì vậy mà các điều còn lại cũng
nên được hiểu như vậy.
Giờ đây
bởi vì một cảnh sắc sắc đập vào sắc thần kinh ngay cả khi không có ước muốn
thấy. Giống như khi những luồng chớp lóe lên v.v... chính vì thế để chứng tỏ
cách thức này đoạn thứ hai trong tác phẩm diễn giải được khởi sự. Ở đây ‘ở mắt
nào vậy’[43] có nghĩa là nơi con mắt đang ở trong thể định sở cách; ‘cảnh sắc’
ở thể chủ cách. ‘đã gây tác động’ chỉ rõ ý nghĩa quá khứ. ‘đang gây tác động’
là ý nghĩa hiện tại. Và có thể gây tác động’ chỉ rõ ý nghĩa có khả năng diễn ra
như thế. Nói rộng ra: một đối tượng trong quá khứ đã tác động lên con mắt quá
khứ. Ðối tượng hiện tại tác động lên con mắt hiện tại. Và đối tượng tương lai
lại tác động lên con mắt tương lại. Liệu đối tượng này có đạt đến được lộ trình
nhãn chăng thì chắc nó phải tiếp xúc lên con mắt: - Ðây là ý nghĩa của một khả
năng có thể xảy ra. Nhưng trong thực tế chỉ có kích thích lên sắc thanh triệt
mới là cảnh sắc có thể nói đã gây ra những động tác như vậy. Ở đây cũng vậy,
theo phương pháp nêu trên ta nên hiểu có bốn phương pháp xác định đối tượng
vậy.
Ðến đây
để chứng minh trường hợp do ước muốn riêng của mình một người nọ đă đưa mắt gần
đến cảnh sắc với một ước muốn để tận mắt nhìn thấy, để cho con mắt đó tác động
lên đối tượng. Ta bắt đầu với đoạn thứ ba trong tập diễn giải. Ý nghĩa thật quá
rõ ràng. Giờ đây con mắt tiếp nhận đối tượng được cho là ‘tiếp xúc lên đối
tượng’.[44] Ở đây cũng thông qua phương pháp trên thì bốn phương pháp xác định
đối tượng cũng nên được hiểu rõ.
[310]
Nơi những gì tiếp theo, có toàn bộ mười đoạn đã được minh chứng. Năm đoạn nhằm
chứng tỏ cho thấy sự xuất hiện năm xúc xứ. Và năm đoạn tiếp theo để chứng minh
sự xuất hiện như được thấy trong định tâm với đối tượng đi kèm.
Trong
những đoạn này, ‘phụ thuộc vào con mắt[45]’ có nghĩa là, biến con mắt thành
nguyên nhân. ‘Liên quan đến một cảnh sắc’ có nghĩa là, vì lý do[46] nào đó,
liên quan tới, tại vì một cảnh sắc. Như vậy nhờ đó mà chứng tỏ sự liên đới với
cảnh sắc, cụ thể là tiếp xúc, v.v... vật nơi thanh triệt, và liên quan đến đối
tượng đó nhờ vào quyền ‘ưu tiên.’ Và cả điều được gộp lại trong quy trình tốc
lực tâm thông qua nhãn môn. Có tương quan nhờ vào đối tượng như là một cảnh
trưởng và đối tượng đó lại nguyên nhân ắt có và đủ.[47]
Trong
năm đoạn khác từ ruparammano[48] có nghĩa là tâm nắm được một pháp hữu kiến làm
đối tượng sự tương quan chỉ được chứng minh ở đây thông qua tương quan với đối
tượng.’ Bốn phương pháp xác định đối tượng nên được hiểu trong mười đoạn này, y
như trong ba đoạn đã bàn đến ở trên.
Như vậy
mười ba đoạn diễn giải đã được chứng minh, có nghĩa là, ba đoạn trên nhằm chứng
minh bằng nhiều cách cho thấy rằng con mắt, đã được nêu lên trong câu hỏi ‘sắc
gì đã được gọi là nhãn xứ[49]?” Phải hiện trạng này và mười hiện trạng khác hay
không? Và vì đã có bốn phương pháp xác định thế nên nơi mỗi hiện trạng trong số
đó đã được sửa soạn công phu thành năm mươi tư phương pháp (13 x 4). Và cũng
như vậy đối với những diễn giải tiếp theo. Ở đây chúng ta chỉ lưu ý đến những
khác biệt chuyên biệt mà thôi.
Sotam,
có nghĩa là nhĩ[50] (hay là tai). Ở phần bên trong bộ phận phức tạp của tai
trong. Tại một điểm có hình giống như một cái nhẫn đeo tay và xung quanh có
đính nhưng chiếc lông mềm và hung hung đen. Ðược bảo vệ bằng những giới thuộc
nhiều loại khác nhau như đã nói ở trên, và được duy trì theo định luật quý
tiết, tâm, chất dinh dưỡng, và mạng quyền[51] gìn giữ. Chú ý đến màu sắc nó
hiện diện đúng thời hoàn tất vật và là ‘môn’ cho nhĩ thức, v.v...
Ghanam
là tỷ hay mũi[52], nằm bên trong một bộ phận phức tạp ở mũi. Tại một điểm có
hình dạng giống như sừng dê, để bảo vệ, nâng đỡ và lưu ý đến (như đã nói ở
trên), [311] nó có mặt đúng thời hoàn tất bản chất vật và là môn của tỷ thức.
‘Lưỡi’[53]
cũng được gọi theo nghĩa thanh triệt. [54] Ở trên giữa bộ phận phức tạp của
lưỡi tại một điểm có hình dáng giống như phần trên một chiếc lá sen bị nhàu
nát. Nó hiện diện đúng thời chu tất bản chất vật và là môn của thiệt thức
v.v...
Nhưng
nơi thân này, bất luận nơi nào có sắc thành do thủ ‘thân như là một lãnh vực
tiếp xúc[55] bất kỳ chỗ nào cũng trở thành (đối tượng) phục vụ, nâng đỡ. bảo vệ
chăm sóc, như đã nói đến ở trên. Như vết dầu đổ loang trên tấm vải bông. Nó sẵn
sàng hiện diện đúng thời hoàn thành bản vật chất và môn của thân thức.
Ðiều đã
đề cập đến cũng rất đặc biệt đối với xứ [được nói đến ở đây] những gì còn lại
trong bản văn và ý nghĩa nên được hiểu theo phương pháp đã được diễn giải ở
trên về nhãn. Vì ở đây từ ‘tai’ v.v... chỉ đơn giản được thay thế bằng từ mắt
‘cảnh thinh’ v.v...đối với từ ‘cảnh sắc’; từ ‘đã nghe’ v.v... được thay thế cho
từ ‘đã thấy’ v.v... do thiếu cặp từ này, ‘hướng dẫn và việc hướng dẫn’ chỉ có
cả thảy mười hai cặp để so sánh mà thôi. Ðiều còn lại ở bất kỳ đâu cũng giống
như đã được trình bầy ở trên.
Bạn có
thể phản đối rằng nếu thân này, bất kỳ chỗ nào có sắc thành do thủ đều. Thì
thân thanh triệt xuất hiện ở ngay tại đó. Giống như dầu loang trên miếng vải
bông. Và sẽ xuất hiện một sự pha trộn những đặc tính đặc biệt.
Không
đâu, chẳng hề có điều gì như vậy cả. Tại sao vậy? Bởi vì ta thấy chẳng có bất
kỳ loại đối tượng nào như vậy cả. Nhưng chúng ta có thể nói, ngay cả nếu như
vậy, thân thanh triệt cũng chẳng hiện hữu ở mọi nơi đâu.’ Thật vậy, hiểu theo
nghĩa tuyệt đối (hay siêu hình). Không phải bất kỳ nơi nào. Nhưng cách diễn tả
(hiện diện ở khắp nơi) được sử dụng vì không thể đưa ra sự đa dạng nơi thân
thanh triệt bằng cách phân tách ra. Chúng ta không thể tách rời cảnh vị
(tastes), v.v... ra khỏi những pháp sắc giống như những phân tử cát và vì vậy
chúng ta nói những sắc pháp này nằm tản mác khắp nơi: cũng vậy, tuyệt đối không
có vị nơi ‘bên trong’ những sắc pháp đó (nếu điều đó có thực thì chỉ là một ‘tỷ
thức’ bất cứ lúc nào xuất hiện một nhãn thức. Ngay cả như vậy thì thân thanh
triệt không hiện hữu khắp nơi hiểu theo nghĩa tuyệt đối và nó cũng không vắng
bóng vì ta không thể tách nó ra được. Chính vì thế không thể diễn ra sự hoà
trộn những trạng thái của các sắc đó.
[312]
Hơn thế nữa, việc xác định những trạng thái đó, v.v... ngăn cản sự pha trộn như
vậy xảy ra. Vì nhãn thanh triệt thì có đặc tính cá biệt của[56] (hiện tượng)
thanh triệt đang có tiếp xúc trực tiếp trên đối tượng. Hoặc của thanh triệt
sanh ra từ động tác được tạo ra do một ý muốn thấy đối tượng. Nó có phận sự lôi
kéo xúc tâm hướng về đối tượng; nó cũng có xác định địa điểm nhãn thức thành
tựu. Nó có tác động của một ước muốn thấy làm nguyên nhân gần tạo ra. Nhĩ thanh
triệt thì có trạng thái của hiện tượng thanh triệt đáng được trực tiếp tiếp xúc
cảnh thinh. Hay khả năng thanh triệt xuất phát từ động tác do ước muốn nghe
cảnh thinh; nó có phận sự lôi kéo tâm hướng về cảnh thinh. Khả năng này cũng
xác định được vị trí cho nhĩ thức khi nó thành tựu; và khả năng này cũng có một
nguyên nhân gần như đã nói ở trên. Tỷ và thiệt cũng vậy, và cuối cùng là đến
thân thanh triệt hay thân xứ cũng có thể xác định loại phân như vậy.
Nhưng có
người lại cho rằng con mắt chỉ là một mặt bằng thanh triệt đối với (hiện tượng)
một khi xuất hiện sức nóng; và tai, mũi, lưỡi cũng chỉ là những mặt bằng dành
cho những (hiện tượng) di động, dãn nở và kết dính, thân là bề mặt thanh triệt
của tất cả hiện tượng. Còn nữa, những thanh triệt khác trong trường hợp bốn
thanh triệt cuối cùng, phân công cho khả năng thanh triệt như sau: - yếu tố
khoảng trống, chuyển động, kết dính, và dãn nở.
Có những
người sẽ yêu cầu: hãy viện dẫn Kinh Phật để chứng minhl! Chắc chắn ta sẽ chẳng
bao giờ tìm thấy một đoạn Kinh Phật nào để trích dẫn như vậy cả.
Nhưng có
một số Kinh đưa ra lý lẽ cho rằng nhãn thanh triệt biết được cảnh sắc trợ giúp
là những phẩm chất sức nóng[57], đối với các thanh triệt khác cũng vậy. Ta có
thể trả lời cho họ như vậy thôi.
Ai có
thể nói [313] các cảnh sắc là những phẩm chất của sức nóng...v.v...? không đâu,
ta không thể nói như vậy đối với các hiện tượng không thể phân tích. Ðây chính
là một đặc tính của các vật đó. Chính vì bạn đã cho biết: ‘chính vì chúng đã
được phân công với nhiệm vụ duy trì, v.v...dưới góc độ co dãn, v.v...do bởi có
sự thái quá nơi hiện tượng này hiện tượng nọ trong số các hỗ trợ đa dạng.[58]
Chính vì thế mà bạn nên đồng ý với câu, ‘các cảnh sắc, v.v... chính là những
phẩm chất của các yếu tố căn bản đó’ từ thấy xuất hiện tính chất thái quá trong
cảnh sắc và các cảnh xứ khác. Khi xuất hiện trong những hỗ trợ đó vẫn thấy xảy
ra một sự vượt trội về sức nóng[59],
v.v...
Ta nên
trả lời cho họ như vậy:- nếu mùi vị nơi bông vải với một cứng mềm vượt trội lớn
hơn là của một chất lỏng bốc hơi với một sự vượt trội ở kết dính. Và nếu mầu
sắc của nước lã lại thấp hơn với nước nóng khi có sức nóng vượt trội. Nếu như
vậy, chúng ta nên đồng ý với ý kiến của bạn. Nhưng hai trường hợp này không thể
xảy ra. Chính vì thế bạn nên bỏ qua những lý luận đặc biệt liên quan đến những
hiện tượng làm căn bản. Vì trong một nhóm, cho dù không có sự phân định các
hiện tượng. những việc thưởng thức vị của sắc và những đối tượng khác không
giống nhau một chút nào cả. Chính vì thế nếu không có lý do đặc biệt, thì nhãn
thanh triệt và thanh triệt khác không giống nhau đâu. Ðâu là lý do tại sao
chúng không tương đồng hỗ tương với nhau? Lý do sự khác biệt nơi các xứ lại
chính là do nghiệp chướng vậy. Chính vì thế từ sự khác biệt nghiệp chướng và
không phải do sự khác biệt nơi (hiện tượng) thế nên ta nên hiểu có sự khác biệt
là như vậy. Vì nếu các hiện tượng khác nhau về chủng loại, thì sẽ không tồn tại
các xứ thanh triệt. Chính vì thế mà các nhà tư tưởng cổ đại có nói: xứ thanh
triệt chính là thanh triệt (hiện tượng) giống hệt như hiện tượng đó. Chứ không
khác biệt[60] chút nào.
Chính vì
vậy trong số các xứ thanh triệt. Chính vì chúng hoàn toàn khác biệt với nhau và
do sự khác biệt nghiệp chướng này, mà mắt và tai biết được đối tượng trước khi
thân tiếp xúc cảnh xúc xảy ra. Ðây chính là vì tâm xuất khởi biết đối tượng
không dính chặt với chính vật của nó.[61] Tỷ xứ, thiệt xứ và thân xứ nắm lấy
đối tượng của chúng đang khi có sắc tiếp xúc với chính chúng. Ðây chính là vì
tâm xuất hiện nơi đối tượng đang bám chặt lấy chính vật của nó. Nhưng trong tập
diễn giải lại cho rằng đối tượng đạt được [tiếp xúc] chính là vì nó đạt được
‘lộ trình xứ.’ Mầu sắc của vành trăng và vành mặt trời ở tận khoảng cách bốn
mươi hai do tuần (yojana) đã va chạm vào nhãn thanh triệt của chúng ta. Mầu sắc
đó, cho dù có vẻ như ở rất xa chúng ta, đều được nhận ra là sắc xúc vậy. Chính
vì có tồn tại một lãnh vực như vậy, chính vì thế ta nói con mắt đã đạt đến được
lãnh vực tiếp xúc. Những thay đổi nơi người đàn ông đang chặt cây nơi một
khoảng cách xa và người thợ giặt quần áo xem ra như ở rất xa nhau. Nhưng tiếng
động lại tác dụng đến nhĩ thanh triệt thông qua một loạt cơ bản [tương đối]
chậm xác định.
[314]
Cho dù trong tác phẩm diễn giải có nói rằng: đối tượng được cho là hiện hữu nơi
sắc xúc chính vì nó đã đạt đến lộ trình xứ.’ Thế nên mầu sắc của vành trăng,
v.v... xuất hiện hình như không do [62] sắc xúc và ở một khoảng cách nhất định.
Và nếu như âm thanh cũng đến chậm như vậy sau khi đã xuất hiện từ xa thì ta chỉ
nghe được âm thanh sau một thời gian mà thôi. Khi đi ngang qua một loạt ấn
tượng và đập vào nhĩ thanh triệt, phương hướng của nó chưa rõ ràng. Chính vì
thế mà tai và mắt có một đối tượng không nằm trong sắc xúc, và giống như con
rắn.v.v...vì rắn không thích những chỗ ngoài trời đã bị lùng xục và dẹp sạch,
nhưng lại rất thích vào lúc nghỉ ngơi mà lại có nơi trú ẩn, như một cái hang có
cỏ và lá cây che phủ, một cái tổ kiến và một nơi tâm an toàn. Cũng vậy con mắt
rất thích những hiệu quả đã nát vụn. Con mắt không thích nhìn vào những bức
tường bóng loáng tô điểm loè loẹt và những gì giống thế. Con mắt không cả muốn
nhìn vào đó, nhưng lại thích nhìn vào những nơi đa dạng hoá với hình ảnh, có
hoa và cây bò tô diểm, v.v... Tuy nhiên, nơi những chỗ như vậy, khi con mắt
không đầy đủ như thổ dân muốn nhìn vào những miệng mở như cái giếng.... Còn
nữa, con cá sấu[63] chạy ra ngoài không nhìn thấy điều nó muốn bắt nhưng đi tìm
thức ăn mà mắt thì nhắm tịt. Nhưng khi nó nhẩy vào nước sâu và vào hang của nó
và bình ổn trở lại, đến đây tâm của cá sấu trở nên tĩnh lặng và ngủ một cách dễ
dàng. Cũng vậy nhĩ xứ ước ao có một ‘hang động’ như vậy. Nó thích có được một
lỗ tai phụ thuộc vào thế gian. Thế gian của lỗ tai chính là nguyên nhân tạo ra
nghe cảnh thinh. Một không gian rộng mở cũng có tác dụng nhất định. Khi một vị
[Tỳ-khưu] tụng kinh trong một hang động, âm thanh không tan biến qua mái hang
động và ra ngoài được, nhưng thoát ra ngoài qua cửa sổ và cửa ra vào. Rồi tác
động đến nhĩ thanh triệt người nghe. Rồi ngay sau đó những ai ngồi đàng sau
hang động cũng biết được [Tỳ-khưu] đó đang tụng kinh gì. Nếu trường hợp đó xảy
ra.- ta có thể nói – đến đây có sắc xúc với [đối tượng]. Nhưng liệu lỗ tai này
có một đối tượng như vậy chăng? Vâng, có đấy nếu vậy thì [thắc mắc nổi lên] có
thể là khi tiếng trống v.v... được đánh vang lên từ xa thì không thể biết được
tiếng động đến từ xa hay không. Nhưng có một hiểu biết như vậy xuất hiện. Vì
khi âm thanh tác động lên nhĩ thanh triệt liền xảy ra một loạt những hiểu biết
này nọ như: khoảng cách xa gần của tiếng động âm thanh xuất phát từ phía bờ
sông bên kia, âm thanh phát ra từ bờ bên này, âm thanh như vậy chính là luật tự
nhiên. Luật tự nhiên này là gì vậy?” bất luận lúc nào xuất hiện một khoảng
trống, [315] từ đó ta có thể nghe được. Giống như thấy đến từ một khoảng cách
từ mặt trăng mặt trời chẳng hạn v.v... như vậy là thiếu sắc xúc nơi nhĩ thanh
triệt.
Con chim
không thích ở trên một cây hay một hang dưới mặt đất, nhưng khi nó bay bổng lên
trời và ở cao khỏi tầm ném một hay hai hòn đá nó có được cảm giác an toàn. Cũng
vậy mà tỷ thức đòi hỏi có một thế gian và có được cảnh khí phụ thuộc vào
gió[64]. Tuy nhiên, đoàn vật vào một cơn mưa đầu mùa lại chúi mũi xuống đất để
ngửi. Và hưỡng mõm lên trời để hít thở trong gió. Và khi một mảnh tan vỡ được
cầm trong tay và chẳng ngửi thấy mùi vị gì nếu ta không hít thở không khí vào.
Còn nữa, đang khi con chó đi lang thang khắp nơi không thể tìm được một nơi an
toàn. Nhưng những cục đá ném tới có thể làm cho chó hoảng sợ. Nhưng khi chó ta
vào được ngôi làng và bới đống tro gần lò sưởi rồi nằm xuống, chó ta đã tìm ra
được thoải mái. Ðối với thiệt thức cũng xảy ra như vậy. Lưỡi cũng muốn tìm ra
cho mình một ‘ngôi làng’ và có cảnh vị phụ thuộc vào yếu tố nước. Như vậy ngay
cả khi bổn phận của vị Tỳ-khưu đã được thực hiện suốt ba[65] canh đêm, và cầm
bát khất thực và mặc áo cà sa ngay vào buổi sáng sớm rồi vào trong làng,
Tỳ-khưu không thể thưởng thức được mùi vị thức ăn khô không có nước miếng làm
ướt đi.
Còn nữa,
con chó rừng không tìm thấy vui thú gì trong việc rong chơi đó đây cho đến khi
nó ăn được thịt người tại nghĩa địa sau buổi hoả táng và nằm xuống nghỉ ngơi
thoải mái. Cũng vậy đối với thân xứ muốn nắm được sắc. Và chiếm lấy cảnh xúc
thuộc vào yếu tố cứng mềm. Như vậy, những người không có sắc thành do thủ được
khi nằm xuống sẽ đặt đầu lên trên gối tay suy nghĩ. Ðịa đại bên trong và bên
ngoài chính là nguyên nhân của thân thanh triệt nắm bắt lấy đối tượng. Như vậy
không thể biết được tính cứng cỏi hay mềm của chiếc giường được trải nệm yêm
hay hoa quả cầm lấy được mà không ngồi xuống giường hoặc không lấy tay ép trái
cây đó. Như vậy nguyên nhân địa đại bên trong và bên ngoài chính là nguyên nhân
trong thân thức biết xúc xứ.
Ðối với
tấc cả về những xứ này cũng vậy, [giống như nhãn và nhĩ] đang khi xác định
những trạng thái, v.v...[66] để lộ ra thiếu vắng một cách pha trộn. Ðối với
những trạng thái, phận sự và thành tựu. Nguyên nhân gần đối tượng được ước muốn
và vật của nhãn thanh triệt thì hoàn toàn khác. [316] Ðối với những gì hiện
diện nơi các thanh triệt khác, như vậy xứ không hề hoà trộn được với nhau, và
hơn nữa, những so sánh ví von này chứng tỏ cho thấy không hề xuất hiện một sự
pha trộn nào bao giờ: - giống như bóng hình của một biểu ngữ nâng cao có năm
mầu hình như được pha trộn lẫn vào với nhau làm thành một, tuy vậy bóng của mỗi
mầu đó không hề hoà trộn với bóng của các mầu khác; và cũng như thế, khi một
ngọn đèn được thắp lên có một tim đèn bằng vải bông toả ra năm mầu. Ngọn lửa
hình như pha trộn lẫn thành một, ấy vậy mà từng ngọn lửa riêng biệt của những
sợi vải bông lại có từng mầu sắc không pha trộn lẫn với nhau. Không những chỉ
những mầu sắc đó mà còn những cảnh sắc còn lại v.v... vẫn không thể hoà trộn
với nhau được. Vì trong cơ thể có ba phần: phần thân thấp hơn, phần thân ở giữa
và phần cao hơn. Ðối với những phần này từ mũi đổ xuống là phần thấp. Trong đó
có bốn mươi tư sắc pháp: thân tháp pháp, trạng thái thập pháp,[67]tám sắc pháp
xuất khởi từ chất dinh dưỡng, tám sắc pháp phát xuất từ quý tiết. Và tám từ tâm
mà ra. Từ mũi đổ lên cho đến khí quản là phần giữa thân, trong đó có năm mươi
bốn sắc pháp: thân thập pháp, trạng thái (giới tính) thập pháp, vật thập pháp,
có ba trong số tám bộ xuất phát từ chất dinh dưỡng, v.v... Từ khí quản (lỗ mũi)
đổ lên là phần thân cao nhất trong đó có tám mươi bốn đặc điểm sắc pháp: nhãn
thập pháp, nhĩ thập pháp, tỷ thập pháp, thiệt thập pháp, thân thập pháp, trạng
thái thập pháp ba bộ tám xuất phát từ dinh dưỡng v.v... trong số này, sự thập
pháp (decad)này có nghĩa là Sắc Tứ Ðại, là nguyên nhân của các thanh triệt,
cùng với mầu sắc, khí, vị, chất dinh dưỡng, sắc mạng quyền, nhãn thanh triệt
được gọi là nhãn thập pháp, nhờ vào đặc tính sắc pháp không thể phân tích và
xác định trước. Những thập pháp còn lại nên được hiểu theo cùng một cách như
vậy. Trong số đó những sắc pháp nơi phần thấp không pha trộn được với những sắc
pháp nơi phần giữa và phần cao nhất; và những sắc pháp nơi hai phần thân còn
lại thì không thể trộn lẫn với những gì thuộc phần dưới. Vì cho dù vào buổi
chiều thì bóng núi và cây cối hình như trở thành một, ấy vậy mà chúng không thể
trộn lẫn với nhau thành một được. Chính vì thế cho dù trong ba phần thân thể
chia ra như vậy nơi cùng một thân, bốn mươi bốn, năm mươi bốn, và tám mươi tư
sắc pháp hình như chỉ là một, chúng không thể pha trộn vào nhau được.
Trong
việc diễn giải ‘cảnh sắc’[68] mầu xắc chỉ là xuất hiện có mầu sắc mà thôi.’ hay
là nó rạng sáng lên – vì thế nó xuất hiện.’ Bằng chứng của nhãn thức chính là ý
nghĩa [317] của một từ kép cảnh sắc có nghĩa là cùng thấy. (co-vision) ý nghĩa
ở đây là, được thấy bằng nhãn thức. ‘Hữu đối chiếu’ hiểu theo nghĩa đen là
‘cùng đối chiếu’ (co-reaction) ý nghĩa là, tạo ra một tiếp xúc. Trong số các
vật có mầu xanh biển và xanh lá[69] v.v... mầu xanh dương hay mầu xanh lá
(nila) giống như clitoria, mầu vàng giống như bauhinia mầu đỏ giống như
bandhujivaka, mầu trắng giống như sao mai mầu đen giống như than cháy, mầu đỏ
thẫm (gớc) giống như hoa sindhu-vira và hoa kanavira. Trong Kinh Bản Sinh
Culahamsa[70] hari được dùng để gọi mầu vàng. Ôi Sumukha, có nước da mầu vàng,
hãy rời khỏi đây nếu ngài muốn.’ Nhưng trong phần tiếp theo jatarupa lại được
gọi là vàng, chính vì thế ở đây hari chính là mầu xanh lá cây đậm. Bẩy từ chỉ
về mầu này được chỉ ra chỉ đơn thuần có liên quan đến bản chất của mầu đó mà
thôi, không đếm xỉa gì đến chính bản chất nội tại của mầu đó. Harivanna chính
là mầu của chiếc lá xanh có mầu đậm. Ambankuravanna giống như mầu của một quả
soài non, hai từ này được đưa ra để ám chỉ bản chất nội tại của vật thể.
Có mười
hai từ bắt đầu bằng từ ‘dài’ đã được chỉ ra bằng việc sử dụng thường ngày. Ðiều
này được hoàn tất bằng cách liên tưởng và đặt liền nhau. Ðối với từ ‘dài’
v.v... được hoàn tất bằng cách liên tưởng lẫn nhau. Từ ‘tròn’ cũng được hoàn
tất bằng đặt liền kề nhau. Trong số hai từ này cũng có liên quan đến ngắn,
‘dài’ cũng được gọi là điều gì cao hơn thế; ‘ngắn’ gọi như vậy là vì thấp hơn
‘cao’. Liên quan đến điều gì to. Vòng tròn có hình chiếc bánh xe; ‘hình bầu
dục’ giống như quả trứng ‘vuông’ hay tứ giác bị giới hạn do bốn cạnh. Và cũng
như vậy nên được hiểu với hình có sáu cạnh, v.v... ‘lõm, lồi’ nghiêng xuống gọi
là lõm. Nghiêng lên gọi là lồi. Trong số những cách diễn đạt này, vì ta có thể
biết được ‘dài’ là như thế nào v.v... cũng bằng tiếp xúc, nhưng không thể biết
được với ‘mầu xanh dương xanh lá’v.v... chính vì thế mà trong thực tế từ ‘dài’
không thể là một cảnh sắc được, caû từ ‘ngắn’ và một số từ tương tự như vậy.
Ðiều chúng ta gọi là ‘dài’ và ‘ngắn’ thì tương đối phụ thuộc vào điều này hoặc
điều nọ. Có một vị trí này vị trí nọ. Và được hiểu ở đây như đã được đề cập đến
theo như cách sử dụng kiểu này kiểu nọ vậy.
Cặp các
từ ‘bóng’ và ‘ánh nắng’ cũng có thể tự tách ra được. ‘sáng’ và ‘lờ mờ’ cũng
giống thế. ‘đầy mây’ ‘sương giá’ ‘đầy khói’ ‘bụi bẩn’ được chứng tỏ có liên
quan đến bốn loại sắc. Trong số này abbha là có mây, Mahīka là có tuyết hay có sương
giá. Thông qua bốn từ thì mầu sắc của mây. v.v... đã được chứng tỏ. Câu ‘giống
như vành trăng có mầu’ v.v... mầu sáng chói của mặt trăng v.v... cũng được
chứng tỏ; sự khác biệt của chúng dưới dạng những đối tượng nên được hiểu như
vậy: làm bằng vàng, mạ bằng bạc, dài và rộng bốn mươi chín du-thiện na (do tuần
(yojana)) mặt trăng là nơi ở của thần mặt trăng. Làm bằng vàng, lợp bằng thuỷ
tinh dài rộng năm mươi du-thiện na (do tuần (yojana)) mặt trời là nơi cư ngụ
của thần mặt trời. Nhà của nhiều vị thần được làm với bẩy loại đá quý, và có
chiều dài chiều rộng tới bẩy, tám, mười mười hai du-thiện na (do tuần
(yojana)), đây là những chòm sao. Trong số những thứ đó thì mặt trăng ở dưới,
mặt trời ở trên cao giữa hai thiên thể đó là một du-thiện na (do tuần (yojana))
từ cạnh thấp của mặt trăng đến phần tận cao của mặt trời là một trăm du-thiện
na (do tuần (yojana)) các chòm sao di chuyển dọc hai bên. Trên đường vận hành
thì mặt trăng tỏ ra chậm chạp, mặt trời chuyển động nhanh hơn, các chòm sao
chuyển động nhanh nhất. Có lúc các chòm sao ở phía sau mặt trời và mặt trăng có
lúc lại xuất hiện ở phía trước.
‘Gương’
là một đĩa tròn làm bằng đồng. ‘Ðá quí’ có nghĩa là toàn bộ các loại đá quí trừ
mắt mèo, được gọi là jotirasa, v.v... ‘Vỏ sò’ từ dưới đại dương ‘Ngọc’ cũng ở
đại dương và các hòn ngọc khác. ‘Cat’s eye’ mắt mèo là một viên đá quí có mầu
xanh tre. Jātarupa chính là ‘vàng’ có mầu như mầu da của sư phụ. Vì sư phụ có
nước da mầu vàng, chính vì thế ta có từ suvanna (nghĩa đen, là ‘mầu đẹp’ cũng
được sử dụng ở đây. ‘Bạc’ đại diện cho tiền (hay là kahapana) đồng bạc Masakas
bằng đồng. Gỗ gôm lắc được sử dụng ở đây và được hiểu gộp ở đây. Qua cách diễn
đạt ‘hoặc bất kỳ điều gì khaùc’ ngoại trừ cảnh sắc được liệt kê trong bản văn
Kinh Phật. Toàn bộ những đối tượng còn lại có mầu sắc khác nhau, như tách, cửa
chớp, vải thô, nấm mốc, sương giá, v.v.. cũng được kể đến.
Như vậy
toàn bộ các cảnh sắc, cho dù có khác nhau về chủng loại, như xanh dương và xanh
lá, v.v... không thể phân tách ra một cách đặc biệt được là vì chúng có trạng
thái riêng v.v... Vì toàn bộ những vấn đề này đều có trạng thái đập vào mắt ta,
phận sự và thuộc tính liên quan đến đối tượng đối với nhãn thức. Thành tựu là
có là lãnh vực nhãn thức. Nguyên nhân gần là có Sắc tứ đại hiển. Giống bất kỳ
loại sắc ý sinh (upada rupa) nào đều có sắc tứ đại hiển làm nguyên nhân gần.
Nhưng ở nơi nào (nơi các xứ giới khác v.v...) đều thấy có những trạng thái khác
nhau về những gì chúng ta sẽ nói tới sau này. Ở đâu chúng ta không có bất kỳ
phương pháp nào được dùng trong cách diễn đạt về nhãn thanh triệt nên được hiểu
như vậy. [319] Sự khác biệt chỉ đơn giản là có cách giải thích bắt đầu với nhãn
thanh triệt; ở đâu bắt đầu với cảnh sắc thì ở đó có tới mười bốn ẩn dụ bắt đầu
với ‘đây là con mắt’ ở đây có tới ba cách “nổi lên” đối với ‘con mắt này là
sắc’. Ðiều còn lại đều giống hệt như đã trình bầy ở trên. Ðối với mười ba đoạn
đã được đề cập đến để xác định con mắt bằng cách phác thảo kỹ lưỡng những đoạn
này trong bốn phương pháp ở đây chúng ta cũng đưa ra những đoạn này.
Trong
phần diễn giải về âm thanh,[71] ‘tiếng trống chầu’ là tiếng của một chiếc trống
lớn. Ba từ khác cũng chỉ rõ âm thanh của trống nhỏ, tiếng cồng, và tiếng trống
gõ bằng tay. ‘Tiếng hát’ là âm thanh của người hát. ‘Tiếng nhạc’ gồm toàn bộ
các âm thanh của nhạc cụ có dây như đàn tỳ bà, v.v... ‘Tiếng chủm choẹ’ là
tiếng của những tiếng vỗ của nhạc cụ làm bằng đồng hay bằng gỗ. ‘Tiếng vỗ
tay’là âm thanh phát ra từ việc ta vỗ hai bàn tay với nhau. ‘Tiếng ồn’ là tiếng
rời rạc cách phát âm không rõ ràng của một đám đông tụ tập lại. ‘Tiếng chấn
động của sự vật’ là âm thanh của cây cối cọ sát vào nhau; tiếng của chuông và
chiêng, tiếng gió là âm thanh gió thổi, tiếng nước là âm thanh của nước chảy
hay do gió thổi. ‘Tiếng con người’ là âm thanh con người ta nói chuyện, v.v...
và tất cả các loại âm thanh khác ngoại trừ tiếng của những chúng sanh không
phải là người phi nhân’[72]
Nhờ cặp
âm thanh cuối cùng này toàn bộ âm thanh đều cạn kiệt đi. Tuy nhiên tiếng động
không được nói đến trong văn bản Kinh Phật và đã tạo ra do tre gẫy, giẻ rách,
v.v... cũng được gộp trong cách phân loại ‘hay bất luận điều gì khác...’
Cho dù
âm thanh cũng được phân tích (trong bản văn Kinh Phật), thí dụ như: tiếng trống
lớn, cũng không được phân tách ra do liên quan đến những trạng thái nổi bật,
v.v... đối với những âm thanh này, toàn bộ cảnh thinh đều có trạng thái là đập
vào tai. Phận sự và đặc tính của cảnh thinh chính là đối tượng của nhĩ thức.
Thành tựu là lãnh vực hay đối tượng của nhĩ thức. Ðiều còn lại nên được hiểu
theo phương pháp được dùng để diễn giải về nhãn. Ở đây cũng vậy có mười ba đoạn
được soạn thảo tỷ mỷ trong bốn phương pháp trên, ý nghĩa của các phương pháp
này có thể tìm thấy trong phần diễn giải đầu tiên. Như vậy chúng ta không triển
khai thêm nữa.
Trong
việc diễn giải lãnh vực mùi hay cảnh khí[73] ‘mùi của rễ cây’ chính là mùi do
rễ cây tạo ra. Và cũng như vậy đối với ‘mùi của nhựa cây’. Mùi của râu quả
v.v... chưa nấu hay nấu một cách sơ sài, là ‘mùi tanh’ của cá, sò, cá thối hay
mùi của bơ cũ.’là hơi độc’ [320] ‘mùi thơm là mùi đáng ước ao được ngửi. Mùi
thối là mùi không ước mơ tí nào.
Thông
qua hai từ cuối cùng toàn bộ cảnh khí đều cạn kiệt. Tuy nhiên tất cả các cảnh
khí không được đề cập đến trong bản văn Kinh Phật, như là mùi nấm mốc, sương
giá, mùi quân áo, v.v... cũng được gộp lại trong loại ‘hay bất kể loại nào....’
Cho dù
cảnh khí đã được phân tích thông qua nhiều loại khác nhau như vậy như mùi rễ
cây, v.v... các cảnh khí này không khác nhau mấy liên quan đến những trạng thái
quan trọng nhất, v.v... vì đối với những trạng thái này, toàn bộ cảnh khí đều
có trạng thái đập vào tỷ xứ, có phận sự làm đối tượng cho tỷ thức. Thành tựu
cùng một lãnh vực. Ðiều còn lại nên được hiểu theo phương pháp đã được sử dụng
trong việc diễn giải về nhãn. Cũng ở đây ta đề ra mười ba đoạn được soạn thảo
kỹ lưỡng trong năm mươi hai phương pháp. Ý nghĩa ở đây đã quá rõ ràng.
Ðể diễn
giảng cảnh vị,[74] vị của rễ cây là vị được bất kỳ loại rễ cây nào tạo ra. Và
cũng giống như vị của thân cây’ v.v... vị ‘chua’ là vị của bơ sữa v.v... vị ngọt
thực sự là bơ làm từ sữa bò.v.v... nhưng mật ong lại liên quan đến tính chặt
chẽ và sau khi đã giữ vững một thời gian lâu và trở thành đông đặc. Ðường thô
có liên quan đến chất kiềm và sau khi đã đông cứng một thời gian nó sẽ trở
thành chất kiềm. Nhưng bơ sau khi đã đông cứng một thời gian cho dù có mất mầu
và mùi, nhưng không mất vị và đường vẫn còn vị ngọt chính công. ‘Vị đắng’ là vị
của loại lá nimb, v.v... vị cay là của loại gừng, tiêu. ‘Vị mặn như muối biển,
‘vị ‘kiềm’ như vị chồi brinjal hay là quả dịu. ‘vị chát’ như là vị quả táo ta,
vị ‘thu liễm’ như ở cây myrobalan, v.v... tất cả các vị này đều có liên quan
đến vật cơ bản.[75] Nhưng ở đây ta nên hiểu theo tên ‘chua’ v.v... một đối
tượng thơm ngon đều có vật cơ bản này nọ. ‘nice’ vị ngon là một vị đáng được ưa
thích; ‘vị ‘buồn nôn’ là vị đáng ghét. Thông qua hai cách diễn giải này thì mọi
cảnh vị đều có thể cạn kiệt. Tuy nhiên những cảnh vị này không thấy được trình
bầy trong bản văn Kinh Phật. Như vị của một cục đá, của bức tường, quần áo
v.v... được gộp lại ở loại ‘hoặc bất kể điều gì.’
Và cho
dù cảnh vị được phân biệt dưới những loại nêu trên, tuy nhiên cảnh vị lại không
được phân biệt như có liên quan đến trạng thái đặc thù, v.v... về vấn đề này,
toàn bộ các cảnh vị đều có trạng thái là va chạm đến lưỡi,[76] phận sự trở
thành đối tượng cho tỷ thức, thành tựu là lãnh vực tỷ thức cũng giống như vậy.
Ðiều còn lại nên được hiểu theo phương pháp đã được sử dụng để diễn giãi nhãn.
[321] Ở đây cũng vậy có tới mười ba đoạn được soạn thảo một cách công phu trong
năm mươi hai phương pháp đã được đưa ra.
Trong
cách diễn giải về nữ quyền.[77] ‘Ðiều mà’ là cách diễn đạt chứng tỏ lý do. Ý
nghĩa ở đây chính là: - Thông qua bất kỳ nguyên nhân nào người phụ nữ cũng
những đặc tính nữ giới riêng’v.v... Ở đó ‘đặc tính nữ giới’ là hình dáng. Nói
rộng ra: hình dạng tay, cổ, vú, v.v... của người phụ nữ không giống với những
gì của nam giới. Phần dưới thân thể của nữ giới thì rộng, và phần trên thì hẹp
hơn một chút. Tay chân nhỏ hơn, miệng cũng vậy. ‘tướng’ là dấu hiệu nhận ra
được. Vú của nữ giới thì nhô lên. Mặt không có râu hay ria. Cách chải tóc, cách
ăn mặc quần áo cũng không giống như nam giới. ‘Tánh nết’ là hành động. Như vậy
khi còn bé phụ nữ thường chơi với những cái vợt nhỏ nhắn và nông, những cái
chày và vữa cát, những con búp bê đa dạng, và đan lát những sợi bằng đất xét.
‘Thái độ’ là cách đi lại hay dáng đi, v.v... thật vậy ta thấy có nhu cầu tự
khẳng định trong cách đi đứng, cách nằm ngồi, ăn uống nơi người phụ nữ. Tuy
nhiên khi một người nam nhìn thấy được những dáng điệu đó thì người ta thường
nói, ‘hắn đi đứng, v.v... giống như phụ nữ. Nữ tính nơi nguyên nhân và con
người’ – hai điều này chỉ có một ý nghĩa: đó là trạng thái nữ đã được sinh ra
do nghiệp chướng và tạo ra vào sát na đầu thai. Nhưng những đặc tính nữ giới
đó. v.v... lại không phải là nữ quyền; những đặc tình này được tạo ra trong quá
trình diễn biến theo một qui trình do quyền này. Khi có hạt giống thì cây mọc
lên từ hạt giống đó và phát triển thành cành cây tán lá và che kín cả một vùng
trời; chính vì thế một khi có nữ quyền và những nét đặc tính nữ giới, v.v...
xuất hiện. Nữ quyền nên được coi như là hạt giống; cây mọc lớn lên và che phủ
cả một quãng trời chính là từ hạt giống đó mà ra. Chính vì thế mà những đặc
tính nữ giới,v.v... khởi xuất trong quá trình diễn biến của cả một qui trình là
vì quyền đó. Ở đây quyền đó không được nhận ra bằng nhãn thức, nhưng chỉ thông
qua ý thức mà thôi. Nhưng đặc tính nữ v.v... được biết bằng nhãn thức cũng như
bằng ý thức ‘đây là sắc nữ quyền.’ Có nghĩa là ‘sắc không phải nhãn quyền,
v.v... nơi người nam’. Theo luật tự nhiên nữ quyền chỉ thuộc về người phụ nữ mà
thôi.
Và cũng
vậy, [322] đối với nam quyền. Những nét đặc tính nam giới, v.v... nên được hiểu
theo nghĩa ngược lại với những gì có nơi phụ nữ. Ðối với dáng vóc tay, chân,
cổ, vú, v.v... của nam giới không giống như dáng vóc những thứ đó nơi người phụ
nữ. Vì phần trên thân thể của người đàn ông rộng hơn, còn phần dưới thì không
rộng bằng; chân tay của nam giới rộng, bộ mặt cũng vậy, vú không nổi lên như ở người
phụ nữ. Có râu và ria mọc trên mặt. Cách chải tóc và kiểu ăn mặc quần áo cũng
không giống người phụ nữ. Khi còn trẻ họ chơi với xe và cày bừa, v.v... làm
những đụn cát và đào ao. Cũng có tính khẳng định nơi cách đi lại của họ nữa,
v.v... khi ta thấy một người phụ nữ đi những bước di dài, v.v... người ta
thường bảo ‘cô ta đi giống như đàn ông.’ Ðiều còn lại giống như những gì chúng
ta đã đề cập đến về nữ quyền.
Ðối với
hai quyền này thì nữ quyền có trạng thái cho biết[78] hiện trạng của một phụ
nữ. Phận sự chứng tỏ ‘đây là phái nữ’ và thành tựu lại chính là nguyên nhân của
phái nữ thấy được nơi nét đặc tính, tướng, nghề nghiệp và thái độ của họ. Nam
quyền cũng có trạng thái nhận ra hiện trạng của một người đàn ông. Phận sự cho
thấy ‘đây là một người đàn ông’ thành tựu là nguyên nhân nam tính nơi những đặc
tính, v.v... cả hai xuất hiện suốt quá trình nơi chỗ trú đầu tiên ngay sau lúc
chúng khởi tái tục sắc xuất hiện trong giây phút thọ thai lại thay đổi thất
thường trong suốt một quá trình và thay đổi những nét đặc tính này. Và sắc xuất
hiện trong suốt một quá trình đó lại không giống nhau chút nào. Như người ta
thường nói: nơi một vị Tỳ-khưu nào đó đã có những đặc tính một người phụ nữ
cũng được tỏ lộ; có lúc nơi một vị Tỳ-khưu ni thì những đặc điểm của một người
đàn ông cũng được tỏ lộ.[79] Trong hai giới thì nam tính cao hơn, còn nữ tính
thì thấp hơn. Chính vì thế mà giới tính người đàn ông biến mất thông qua hạnh
kiểm bất thiện. Còn của người phụ nữ thì chỉ được như vậy thông qua việc đạo
đức yếu mà thôi, nhưng khi biến mất thì giới tính của người phụ nữ chỉ làm được
như vậy thông qua những điều bất thiện yếu. Còn của người đàn ông cũng có thể
biến mất thông qua việc đạo đức mạnh mẽ. Chính vì vậy cả hai giới tính đều biến
mất do những gì hạnh kiểm Bất thiện và lại phục hồi nhờ vào việc đạo đức mà ra.
Một
người ái nam ái nữ có một hay hai quyền? Chỉ có một mà thôi, và đó là nữ quyền
nơi người nữ lưỡng tính và nam quyền nơi người nam lưỡng tính. Như vậy, thì
không thể có loại người lưỡng tính nam giới được. Vì nữ quyền được cho là lý do
xuất hiện tướng phụ (vynajana)[80] đó. Nếu thế thì một người lưỡng tính nam
giới không có quyền hay sao? Trong trường hợp như vậy thì nữ quyền không phải
là nguyên nhân tướng phụ, [323] vì không thấy xuất hiện đặc điểm bất biến. Vì
khi nơi người lưỡng tính nữ giới một tâm ý tà dâm đối với người phụ nữ nổi lên,
thì tướng phụ nam giới được bộc lộ ra, và tướng phụ nữ giới được dấu đi và che
đậy lại; và ngược lại. Và nếu nơi những người như vậy quyền lại chính là nguyên
nhân tạo ra tướng phụ vừa nói thì lúc đó luôn luôn thấy tồn tại cả hai tướng
phụ. Nhưng trong thực tế không thấy có sự xuất hiện này, chính vì thế ta nên
hiểu là nơi một người lưỡng tính quyền không phải là lý do để cho tướng phụ
xuất hiện (Thì đâu là nguyên nhân đó?) – tâm ý dâm dục, bạn bè nghiệp chướng
(trong quá khứ) chính là lý do vậy. Và chính vì chỉ có một quyền nơi một người
lưỡng tính, vì thế mà chính người lưỡng tính nữ sẽ mang bầu và tạo ra cho người
khác mang bầu; người lưỡng tính nam giới là nguyên nhân làm cho người khác mang
bầu nhưng chính mình không thể mang bầu được.
Trong
việc diễn giải về mạng quyền[81] điều cần nói đến ở trên đã được trình bày
trong mục phi sắc mạng quyền.[82] Trong phần đó đã được trình bầy đơn giản ‘đó
là điều thuộc phạm vi những pháp phi sắc: - Ở đây, vì bản chất sắc quyền, có
duy nhất sự khác biệt nguyên bản đó là điều thuộc về các pháp sắc này.’ và
những trạng thái của nó, v.v... nên được hiểu như sau: sắc mạng quyền có trạng
thái canh gác các đối tượng sắc cùng tồn tại, coi sóc qui trình của chúng như
phận sự, tính bền bỉ của chúng như là thành tựu, điều phải được duy trì là
nguyên nhân gần.
Trong
việc diễn giải điều thân biểu trí,[83] ở đây biểu tri ở điểm đầu tiên là làm
cho biết hiện trạng của chính chúng ta bằng cách hành động thuộc về thân. Cả do
súc sanh gợi ý cho con người và con người gợi ý cho súc sanh vậy khớp với một
(sự sắp xếp nào đó của thân thể; như vậy mà hiện trạng nhờ đó một cách sắp xếp
được biết đến. Chính bản thân biểu lộ theo cùng một cách. Hoặc còn nữa, nhờ vào
đó một cách sắp xếp như vậy được biết đến. – Ðây cũng là biểu tri. Loại biểu
tri được gọi là thân biểu tri chính là việc làm lay động thân được nhận ra bằng
những câu ngạn ngữ như, ‘tự kiềm chế trong hành động là điều tuyệt vời.’ một ý
nghĩa được biết đến thông qua các điệu bộ thân và như vậy chúng ta được biết
đến.
Trong
các từ ‘từ một tâm thiện v.v... chúng có liên quan đến chín loại tâm thiện: -
tám thuộc cõi Dục giới và một liên quan đến thắng trí; hoặc liên quan đến tâm
bất thiện nghĩa là do mười hai loại tâm bất thiện; ‘hay liên quan đến tâm vô ký
nhờ vào mười một loại tâm tố có tám tâm đại tố và hai tâm tố ý giới. Một tâm tố
đã đạt đến được thắng trí. Các loại tâm khác đối với những tâm này đều không
tạo ra biểu tri nào cả. [324] Nhưng cũng còn có một loại biểu tri nhờ vào không
hơn loại này đối với những người sơ cơ theo đuổi con đường Phật Pháp, những
người đã thông thạo và cả những người bình thương. Như vậy thông qua ba từ này,
thiện, bất thiện, và vô ký, v.v... biểu tri được chứng tỏ như là một điều kiện
nguyên nhân.
Ðến đây
để chứng tỏ biểu tri như vậy thông qua sáu từ như là một kết quả, bản văn Phật
pháp tiếp diễn:- ‘về bước tới.’ Vì bước tới và cách hành vi khác nổi lên đều
nhờ vào biểu tri. Chúng được gọi là kết quả của biểu tri. Trong đó, ‘một bước
tới,’là điều kéo thân xác về phía trước.’ Bước lùi’ là điều đem thân thụt lại
phía sau. ‘Nhìn lên phía trước’ chính là điều giúp ta nhìn thẳng về phía trước;
‘một người nhìn về phía trước.’ Chính là người nhìn thẳng về phía trước. Nhìn
xung quanh’ chính là người nhìn sang bên này bên kia. Co tay vào là người vòng
khuỷu tay lại và một duỗi tay ra và người duỗi khúc khuỷu tay ra.
Ðến đây
để chứng minh biểu tri thông qua sáu từ thuộc bản chất nội tại, bản văn Kinh
Phật tiếp tục như sau: ‘kāyassa thambhana; trong đó kāyassa chính là “điều
thuộc về thân” thambhana sự lay động chính là chất hồ cứng làm cho thân xác trở
nên cứng cáp. Tăng thêm một giới từ sam, ta có samthambhana; sự cử động điều
này có thể hiểu là chất hồ cứng có sức mạnh lớn hơn. Samthambhitatta cách di
động chính là hiện trạng một thân xác rất cứng cáp. Tiếp theo, vinnatti lại là
sự biểu tri; vinnapana chính là một hành vi hay là một trạng thái biểu tri.
Chách biểu tri chính là vinnapitattam. Bất kỳ điều gì ở đây được thêm vào đã được
đề cập đến ở trên trong Bài Pháp về ‘môn’[84]
Cũng
giống vậy trong khẩu biểu tri.[85] Nhưng ý nghĩa của từ ‘khẩu biểu tri’ bàn về
các từ trong việc diễn giải, vẫn chưa được khẳng định trong Bài Pháp về ‘Môn’
và nên hiểu như sau: - những người nào tỏ ra biết những hiện trạng thực chất
bằng lời nói.- Kể cả loài người lẫn loài vật và loài vật với loài người.- Hiện
trạng này được biết đến thuận theo với [một số] cách sắp xếp ngôn ngữ. Hiểu
được ý nghĩa của các từ chúng ta được gợi ý. – Như thế chính là biểu tri vậy.
Loại biểu tri được gọi là khẩu biểu tri chính là cách tác động tiếng nói được
nhận ra trong các ngạn ngữ như là ‘tự kiềm chế khẩu là điều tuyệt vời’ v.v...
đây là một cách biểu lộ ý định của chúng ta bằng âm thanh của ngôn ngữ. Còn
nữa, từ việc gợi ý chính chúng ta bằng cách biểu tri này được thực hiện thông
qua ngôn ngữ. Trong ‘ngôn ngữ’ ‘lời nói’ v.v... âm thanh được thoát ra cũng
được coi như là biểu tri. Việc thốt ra lời nói là một câu có đầy ý nghĩa. Phát
biểu câu văn đó có nghĩa là một cách diễn tả về những gì ước muốn được biết và
để cho người khác được biết. Ðiều được thốt ra chính là cách ‘phát âm’ ‘Tiếng
nói’ chính là điều phát ra âm thanh. ‘hành vi phát âm chính là điều gì đó được
thực hiện. ‘Hành vi phát âm lại phát ra tiếng động. Tiếng động thực hiện bằng
nhiều cách [325] cũng lại là ý nghĩa. ‘Cách ăn nói lưu loát’ là những hình thức
ngôn ngữ đặc biệt, không phải chỉ là tiếng kêu, nhưng là ngôn ngữ có một ý
nghĩa được xác định. Hay là một cách phát ra âm thanh được chia ra để chuyển tải
một ý nghĩa. Từ ‘ngôn ngữ’ được chứng tỏ bằng ý nghĩa của toàn thể các từ này.
Ðến đây
để cho thấy biểu tri thực chất, có ba trạng thái xuất hiện nhờ vào các từ ‘biểu
tri’, v.v... (ý nghĩa của các từ này đã được đưa ra ở trên) và bằng cách nối
kết chúng với từ ‘ngôn ngữ’ ta có thể nói rằng, đó là khẩu biểu tri.’ v.v...ý
nghĩa thật rõ ràng đối với những gì chúng ta đã nói đến ở trên.
Giờ đây
trong số các loại tâm tạo ra biểu tri nhằm mục đích không tạo ra si mê, ba mươi
hai, hai mươi sáu, mười chín và mười sáu nên được hiểu như là đã được nêu rõ.
Ba mươi hai loại tâm tạo ra những phẩm sắc xuất hiện. Ðể tăng cường thêm những
oai nghi và làm nẩy sinh cho loại biểu tri. Hai mươi sáu loại tâm tạo ra chỉ
một loại biểu tri, và không tạo nên hai sắc khác mười chính loại tâm chỉ tạo ra
một loại sắc và không tạo ra hai loại sắc khác. Mười sáu tâm không thể tạo ra
được bất kỳ một trong ba sắc đó. Trong toàn thể các loại tâm đó, ba mươi hai
lại phân thành tám loại tâm thiện được phân tích ở trên và mười hai tâm bất thiện
được phân tích từ các cõi Dục giới, mười tâm tố. Một tâm thắng trí thiện ở bậc
Thánh hữu học và phàm nhân; một thắng trí tố của bậc Thánh vô lậu. Hai mươi sáu
tâm thì có năm tâm thiện và năm tâm tố sắc giới, bốn tâm thiện và bốn tâm tố vô
sắc giới bốn bậc tâm đạo và bốn bậc tâm quả. Mười chín tâm là mười một tâm quả
thiện dục giới, hai tâm quả bất thiện, một tâm tố ý giới, năm tâm quả sắc giới.
Mười sáu tâm là mười loại thức, tâm tái sanh thuộc toàn bộ chúng sanh, tâm tử
của các vị thánh vô lậu, bốn tâm quả vô sắc. Chính vì vậy có mười sáu tâm không
mang lại hiệu quả gì cả ở sắc lẫn oai nghi và biểu tri. Còn nhiều tâm khác nữa
nơi cõi vô sắc không tạo ra sắc do đã thất bại trong việc có được cơ hội thuận
tiện, như là những trạng thái tạo ra thân biểu tri lại là khẩu biểu tri vậy.
Trong
việc diễn giảng hư không giới[86] ‘hư không là một điều gì đó không dấu không
vết không thể sờ mó đụng chạm, cắt đứt hay làm bể ra được. Với phụ tố gata (đi
tới) ý nghĩa không thay đổi. Giống như trong từ khelagata saliva), v.v... hay
ta có thể coi như là a-kasagata, một chỗ không thể đụng tới được. Bầu ‘Trời’ là
một cái gì đó không thể đụng được. (a-gham); không thể đụng tới được chính là ý
nghĩa của bầu trời. Agahgatam cũng có nghĩa như vậy. ‘Khoảng trống không’
(vicara) có nghĩa là một cái lỗ; cũng còn có từ vivaragatam. Bằng cách diễn đạt
‘không xúc chạm với sắc tứ đại hiển’, ta khẳng định sắc tứ đại không có gì liên
quan đến hư không giới. Và bắt đầu với trạng thái của nó. Hư không giới có
trạng thái định ranh giới cho sắc pháp phận sự là cho thấy những ranh giới của
nó. Thành tựu không gian chứng tỏ những giới hạn của sắc tứ đại. Hiện trạng sắc
tứ đại không thể đụng tới thế gian và là những lỗ hổng và khe hở cho sắc tứ đại
là thành tựu của không gian. Các sắc được phân chia ra là nguyên nhân gần.
Chính vì điều được phân chia trong các nhóm chúng ta có thể khẳng định được
‘đây là phía trên, đây là phía dưới và đây là bề ngang.’
Việc
diễn giải[87] tiếp theo về ‘khinh sắc’ v.v... nên được hiểu theo phương pháp đã
bàn đến ở trên về ‘khinh tâm,’ v.v[88]... nhưng ở đây bàn về những trạng thái,
v.v... thì khinh sắc có trạng thái là tính nhanh nhẹn, phận sự của khinh sắc là
loại bỏ được đặc tính nặng nề nơi các sắc pháp, thành tựu là mau chóng thay
đổi, nguyên nhân gần là có sắc nhẹ, kế đến là sắc nhu, nó có trạng thái là
không cứng rắn, phận sự là diệt trừ sự cứng rắn của các sắc pháp không có sức
đối kháng nơi toàn bộ các hành vi vì lý do tính chất mềm dẻo thành tựu. Có sắc
mềm dẻo là nguyên nhân gần. Sắc thích nghiệp lại có trạng thái dễ sử dụng thích
hợp và thuận lợi đối với các hành động thuộc về thân, phận sự của nó là diệt
trừ tính chất khó sử dụng. Không yếu đuối là cách thành tựu, có sắc dễ sử dụng
là nguyên nhân gần.
Ba đặc
tính này không[89] loại bỏ lẫn nhau. Tuy nhiên cho dù điều này có thể là như
vậy [cả ba không thể phân biệt rạch ròi được] Sự thay đổi sắc chính là sắc
khinh. Tính nhanh nhẹn và loại thay đổi đặc biệt chính là tác động nhanh của nó
được thoát khỏi ốm đau, và được tạo ra từ nguyên nhân đối nghịch với trạng thái
rối loạn nơi các yếu tố tạo ra sự nặng nề nơi sắc. Ðiều thay đổi của sắc chính
là sắc nhu chính lại là tính mềm dẻo của sắc giống như cái ta thấy nơi da được
thuộc kỹ, được phân biệt nhờ vào đặc tính dễ điều khiển, tính khéo léo nơi toàn
bộ những công việc đặc biệt, và được tạo ra từ những nguyên nhân đối ngược với
trạng thái rối loạn nơi các yếu tố tạo thành tính cứng nhắc của sắc. Thay đổi
sắc là sắc thích nghiệp chính là tính tiện dụng của sắc pháp giống như vàng
được đánh bóng kỹ càng mà tính thích hợp đối với toàn bộ hành động thuộc về
thân có thể phân biệt được. [327] và có nguyên nhân đối nghịch với rối loạn nơi
những yếu tố làm thành tính chất không thích hợp tạo ra. Như vậy ta nên hiểu sự
khác biệt này, và nghiệp chướng không thể tạo nên chúng; chỉ có chất dinh dưỡng
[tâm và quý tiết][90] có thể tạo ra. Chính vì thế các vị Sa-môn[91] nói, ‘Ngày
hôm nay chúng ta được ăn thức ăn phù hợp; thân chúng ta thật nhẹ nhõm, dẻo dai
và dễ sai khiến’ (sử dụng); ngày hôm nay chúng ta được hưởng khí hậu thích hợp’
ngày hôm nay tâm chúng ta tập trung vào một đối tượng, thân chúng ta trở nên
nhẹ nhàng, mềm dẻo và dễ sai khiến.’
Trong
việc diễn giải về tích trữ và thừa kế,[92] nơi các xứ có nghĩa là mười và một
nửa[93] xứ sắc, ‘việc tích luỹ’ chính là việc sinh sản và việc hình thành ‘cái
được gọi là sắc tích trữ sắc thừa kế, có nghĩa là, ‘sự tăng trưởng quá mức
trong qui trình vượt quá sự tăng trưởng nơi những sắc pháp đã được khởi sự như
vậy là sắc thừa kế. Ý nghĩa là một qui trình. Việc tích tụ nên được hiểu như là
căn nguyên nguồn gốc. Giống như nước chảy ra khi người ta đào một lỗ từ trên bờ
sông. Việc tích trữ được coi như là việc tăng trưởng giống như khi một lỗ chứa
đầy nước; sự thừa kế giống như sự tiến lên liên tục. Giống như khi nước tràn lỗ
đó. Việc diễn giải này mang ý nghĩa gì? Ở đây hàm ý xứ tích lũy và qua việc xứ
tích luỹ. Cả hai điều đã được khẳng định[94] và điều gì đã được nói tới về cả
hai được hàm chứa ý nghĩa ở đây? Việc tích luỹ, tính tích trữ, sự sinh sản sự
tăng trưởng của bốn sắc pháp liên tục được nói tới ở đây. Theo nghĩa đích thực
cả tích trữ và thừa kế đều đồng nghĩa với sắc sinh. Ấy vậy để làm rõ sự khác
biệt nơi cách thức sáng tạo. Ngài đã dạy trong phần mở đầu khi [phân biệt] giữa
tích trữ và thừa kế. Làm như vậy, theo ý nghĩa đích thực vì không có sự khác
biệt trong hai từ này. Chính vì thế trong việc diễn giảng ngài đã nói. ‘Sắc nào
là tích luỹ các xứ cũng chính là sắc tích trữ vậy. Sắc nào là sắc tích trữ sắc
ấy là sắc thừa kế vậy; sự phát sinh ý nghĩa nói rằng sự tích lũy gọi là sắc
tích trữ hơn thế nữa sự xuất hiện ý nghĩa tiếp theo sau, theo nghĩa phát triển
ở trên, sắc tích trữ và cũng sắc thừa kế[95] vậy. Và vì cả hai sắc tích trữ và
sắc thừa kế đều đồng nghĩa với sắc sinh chính vì thế từ đó sắc tích trữ có
trạng thái là tích luỹ, là phận sự làm cho các sắc pháp xuất hiện ngay vào lúc
bắt đầu, hướng chúng hay đặc tính đầy đủ sắc, có sắc tích trữ là nguyên nhân
gần. Sắc thừa kế có trạng thái xảy ra liên tục, phận sự nối kết và ràng buộc
không để cho đổ bể, thành tựu ở hàng loạt những cái không thể đổ bể được.
Nguyên nhân gần là có sắc được ràng buộc không đổ bể.
Trong
việc diễn giải về tình trạng lão hóa[96] ‘lão hóa’ là trở nên già cỗi; [328]
điều này chỉ định bản chất nội tại của sắc pháp. Hình thái suy xụp là ‘già
nua.’ Có ba từ bắt đầu bằng ‘tình trạng già nua’ chỉ rõ nhiệm vụ sau một quãng
thời gian. Hai từ sau, ‘giảm thọ, và sự chín muồi các căn. Chỉ rõ bản chất của
sự già nua. Chính từ già nua cho thấy điều gì thực sự tồn tại; chính vì thế
việc diễn giải khẳng định bản chất của sự già nua. Với từ ‘lão hoá’ thì hiện
trạng này được phơi tỏ. Chính vì thế sự diễn giải này chỉ rõ cách thức già nua.
Với từ ‘tình trạng già yếu’ cho thấy nhiệm vụ là lý do [97]đối với hiện
trạng răng rụng, gẫy móng tay móng chân v.v... Với từ ‘tóc bạc’ có nhiệm vụ
chứng tỏ lý do tại sao tóc đổ bạc trên đầu và cả trong cơ thể nữa. Với từ ‘da
nhăn’có nhiệm vụ chứng tỏ lý do cho thấy hiện trạng nhăn nheo nơi da làm cho
thịt héo tàn đi. Chính vì thế ba từ này chỉ rõ nhiệm vụ của sự già nua trong
quá trình thời gian. Bằng cách cho thấy những thay đổi mà sự già nua được thể
hiện. Như một lối đi nước hay lửa đã làm quang đãng cỏ, cây, v.v... nhưng chính
lối đi đó lại không là nước hoặc lửa đâu. Chính vì thế mà lối đi của già nua
thông qua tình trạng già yếu lại thể hiện ở nơi răng, v.v... chúng ta có thể
nhìn thấy rõ bằng mắt trần nhưng tình trạng già yếu v.v... chẳng phải là sự già
nua, tuy nhiên đó là điều không thể nhận ra bằng mắt được. Và già nua được thể
hiện thông qua bản chất kết quả được biết đến như là chính điều rõ ràng giảm
thọ. Và sự chín muồi của các căn’ nhãn căn v.v... trong qui trình thời gian
thông qua từ: ‘giảm thọ, và sự chín muồi của các căn’. Chính vì thế hai cách
diễn đạt sau này chỉ rõ bản chất kết quả của già nua này. Chính vì cuộc sống của
một chúng sanh đạt đến già nua (decay) sẽ bị rút ngắn đi. Chính vì thế mà già
nua (decay) được cho là khi cuộc sống rút ngắn lại. Ðây là cách diễn tả theo
ngôn ngữ tượng hình. Hơn thế nữa các căn như nhãn căn.v.v... có khả năng nắm
bắt được đối tượng cách dễ dàng tuy nhiên rất tinh tế và rõ ràng trong thời
trai trẻ. Lại đạt đến mức trưởng thành nơi người nào đã đạt đến giai đoạn già
nua; chúng bị phá rối và không rõ ràng nữa. Và không còn khả năng nắm được đối
tượng cho dù một cách thô thiển. Chính vì thế già nua được cho là sự chín muồi
của các căn thông qua ngôn từ tượng hình. Và toàn bộ sự già nua này được định
rõ đến như vậy lại có hai đặc điểm: hiển nhiên và che dấu. Già nua được cho là
hiển nhiên nơi các sắc pháp từ dấu hiệu suy nhược, như mắt mờ răng rụng, v.v...
theo từng giai đoạn một như thể trong trường hợp các hòn ngọc. Vàng, bạc, san
hô, mặt trăng, mặt trời, v.v... thuộc con người vào những thập niên, niên
thiếu, v.v... của hoa quả đọt cây, v.v... [329] của các vật vô tri vô giác;
‘già nua liên tục’ ý ta muốn nói ở đây là già nua được cho là không gián đoạn
khi chúng ta dễ dàng biết đến sự phân biệt mầu sắc, v.v... theo từng giai đoạn
một, nơi những vật vừa nói đến ở trên ngoại trừ đá quí, vàng bạc v.v... như vậy
đối với những trạng thái v.v... sắc lão hóa có trạng thái là đạt đến trưởng
thành nơi sắc, có phận sự là dẫn đến (đổ bể); thiếu mất tình trạng mới mẻ. Tuy
vậy vẫn không thiếu mất bản chất nội tại là thành tựu giống như thóc lúa bị hư
rữa; sắc trưởng thành chính là nguyên nhân gần.
Trong
việc diễn giải sắc ‘vô thường’ ‘sự phá huỷ’ có nghĩa là bị tiêu diệt. ‘Biến
mất’ là một qui trình biến đi như thế; ‘tiêu tan’ chính là việc ‘phân huỷ.’ Và
vì sao khi đạt đến chính bản chất của mình, thì sắc pháp lại phải trải qua mất
mát, phá huỷ, tan vỡ, chính vì thế theo bản chất đó vật thể trải qua phá huỷ,
tiêu tan, và phân huỷ. Từ việc gia tăng thêm sức mạnh bằng giới từ pari - ‘tan
vỡ’ được gọi là ‘phân huỷ toàn diện. (paribheda), hiểu theo nghĩa không còn tồn
tại sau khi đã trở thành, không phải tồn tại vĩnh cửu, có nghĩa là ‘vô thường’.
Sự biến mất có nghĩa là sắc tan biến mất. Khi đã đạt đến sự chết. Sắc pháp biến
dạng và trở thành không thể thấy được; không những chỉ có sắc pháp, nhưng còn
toàn bộ ngũ uẩn cũng đều biến mất. Chính vì thế thông qua đặc tính ‘vô thường’
bất luận điều gì trong ngũ uẩn đích thực đều là trạng thái này được định nghĩa
đầy đủ. Sắc vô thường có trạng thái tiêu tán hoàn toàn, việc hợp nhất hoà trộn
vào sắc làm phận sự phá hủy và sự biến dần là thành tựu. Sắc trải qua biến dạng
là nguyên nhân gần. Ở trên, sinh được ám chỉ và ‘diệt’ cũng vậy; ở điểm này tử
cũng lại được hàm ý. Ba hiện trạng được cấu tạo như vậy cũng giống như kẻ thù
với ngọn kiếm vung lên. Ðối với bất kỳ một trong ba kẻ thù của một người đi tìm
một cơ hội, và một tên đã có thể nói, ‘công việc của tôi là đuổi hắn ra khỏi
làng và đuổi hắn vào trong rừng.’ Tên thứ hai lại nói, ‘việc của tôi là đánh
gục hắn nằm xõng xoài xuống đất. Một khi đưa được hắn vào trong rừng,’tên thứ
ba lại nói. ‘trách nhiệm của tôi là từ lúc đưa hắn vào trong rừng và đánh hắn
gục xuống đất cho đến khi lấy kiếm chặt đầu hắn.’ Vì thế đây là [ba giai đoạn
của cuộc sống]. Vì sự sanh giống như một kẻ thù đuổi hắn vào rừng là vì hắn đã
sinh ra ở chỗ này chỗ nọ trên trái đất. Già cũng giống như một kẻ thù đaùnh gục
hắn xuống đất khi hắn đã vào trong rừng. Bởi vì các uẩn được tạo ra hơi yếu,
phụ thuộc vào người khác. Nằm trên một chiếc giường. Chết giống như một kẻ thù
với cây kiếm trong tay [330] cắt đầu hắn khi hắn ngã xuống đất, vì các uẩn đã đạt
đến già. Xuất hiện sự phá hủy cuộc sống.
Trong
việc diễn giải sắc đoàn thực, ‘loại cứng ở đây có nghĩa là thức ăn được chế
biến thành một thứ có thể ăn được giống như miếng và được nuốt xuống. Thức ăn
(chất dinh dướng) có nghĩa là, khi được ăn vào miệng, được làm thành một miếng
và nuốt xuống dạ dầy đó chính là ý nghĩa muốn ám chỉ;’ lấy ở phần trên của sắc
(ahara). ‘Cơm’ v.v... được nói đến bằng cách đem ra một tên do bản chất nội tại
mà ra. Ðối với các chất dinh dưỡng được ám chỉ ở đây có mười hai chất. Bắt đầu
với cơm và kết thúc với si-rô. Các loại củ không được đề cập đến trong bản văn
Phật Pháp và được liệt kê vào loại ‘hoặc bất luận điều gì.’ Ðến đây để có thể
chứng tỏ cho thấy các củ và trái cây v.v... là những đồ có thể ăn được. Ta có
thể nói rằng ‘nơi bất kỳ vùng nào,’v.v... Ở đây điều gì có thể ăn được, và
thưởng thức vào miệng chính là mukhasiya, điều có thể lấy răng mà nhai là
vikhadanam, được nuốt xuống qua cổ họng được gọi là galajjhaharaniyam. Giờ đây
‘đầy bụng’ được đề cập đến để cho thấy chất đó là nhiệm vụ. Vì sắc được nuốt
xuống như thể các củ và trái cây, v.v... cũng như cơm, sữa chua v.v... làm đầy
dạ dày. Ðây chính là nhiệm vụ của sắc dinh dưỡng.
Thông
qua tất cả các từ đã được nói đến ở trên chất dinh dưỡng được chỉ rõ cùng với
bản chaát. Ðến đây để chứng tỏ bản chất dinh dưỡng đích thực chắt lọc qua khái
niệm. Cách diễn tả: nhờ đó các sắc dinh dưỡng các hữu thể duy trì được chính
chúng... trong số các chất dinh dưỡng này, đâu là phận sự của bản thể và sắc
dinh dưỡng? Việc loại bỏ mọi nguy cơ và bảo quản là hai nhiệm vụ riêng biệt.
Ðối với sắc việc loại bỏ nguy cơ và không thể giữ gìn được. Sắc dinh dưỡng thì
bảo quản được mà không thể loại bỏ được nguy cơ. Cộng chung lại với nhau. Cả
hai đều có thể giữ gìn và loại bỏ được nguy cơ. Nguy cơ đó là gì vậy? Ðó là sức
nóng do nghiệp chướng. Vì khi không có sắc như là cơm trong bụng, thì sức nóng
nổi lên và xâm chiếm thành dạ dày và khiến cho chúng sanh kêu lên, ‘tôi đói
quá, cho tôi xin chút đồ ăn.’ Khi đã được ăn, thì sức nóng thoát ra từ thành dạ
dày và chiếm lấy sắc. Ðến đây thì người đó trở nên yên tâm. Vì khi Ngạ quỷ xâm
chiếm hắn và nhập vào bóng cây, trói buộc hắn với dây xiềng quỉ sứ, và vui
sướng nơi chính chỗ ở của nó, xuất hiện lúc đói và cắn xé vào đầu hắn, chính vì
thể người đó kêu lên cho đến khi nào có người nghe thấy tiếng động từ nhiềâu
nơi khác nhau. Nói rằng: ‘ở đây có người gặp rắc rối [331] và Ngạ quỷ xuất hiện
và cắn xé bất kỳ một ai có mặt và vui sướng tại nơi ở của nó. Chính vì thế ta
nên hiểu việc áp dụng dụ ngôn này như vậy. Vì giống như quỷ đói sức nóng tạo
nghiệp chướng, giống như một người bị xiềng xích tinh thần kìm kẹp thì thành dạ
dày cũng vậy; giống như những người tiếp tục xuất hiện chính là sắc của cơm,
v.v... giống như Ngạ quỷ tụt xuống khỏi cây và mổ lên đầu người đó đó chính là
việc phóng thích và xâm chiếm thành dạ dày do sức nóng được nghiệp chướng tạo
ra; giống như người bị cắn kêu lên, ‘xin cho tôi đồ ăn’; giống như việc vui
mừng được ở trong nơi cư ngụ sau khi cấu xé và ăn thịt bất kỳ người nào có mặt
đó là tín hiệu báo nguy chính là sự yên tâm khi thành dạ dày đã bị phóng thích,
và nghiệp chướng sanh ra sức nóng đã xâm chiếm lấy sắc.
Ở đây
bản chất dinh dưỡng nơi sắc thô thì yếu, nơi sắc tế lại rất mạnh. Vì sau khi đã
ăn thức ăn thô đó v.v... người ta lại cảm thấy đói trở lại sau một quãng thời
gian. Nhưng đối với ai đã ăn bơ, v.v... thì không cần đến đồ ăn nữa trong suốt
một ngày. Và ở đây sự tinh tế và thô thiển nên được hiểu theo nhiều cách khác
nhau. Chính vì thế đồ ăn dành cho loài công thì tinh tế hơn so với đồ ăn dành
cho cá sấu. Những con cá sấu này được cho là có thể nuốt cả đá và tiêu hoá
chúng trong dạ dày; loài công thì ăn những sinh vật như rắn và bọ cạp. Và đồ ăn
của những con linh cẩu thì lại tinh tế hơn so với những gì con công đã ăn. Vì chúng
được cho là có thể ăn sừng và xương rải rác đó đây hàng vài ba năm. Và đã trở
thành mềm giống như củ tỏi và các loại củ vào lúc nước miếng thấm vào và làm
cho ướt ở trong miệng. Ðồ ăn của con voi lại tinh tế hơn so với đồ ăn của loài
linh cẩu, vì chúng ăn lá của nhiều loại cây, v.v... tinh tế hơn là loại thức ăn
dành cho bò tót, bò rừng và hươu nai, v.v... chúng có thể ăn cả lá không có
ruột của nhiều loại cây, v.v... còn tinh tế hơn thế chính là đồ ăn của đàn bò,
loài bò chỉ ăn cỏ, cả tươi lẫn khô. Ðồ ăn của con thỏ rừng còn tinh tế hơn nữa,
nhưng đồ ăn của loài chim còn tinh tế hơn nhiều, hơn cả đồ ăn của những người
sống ở biên giới. Tinh tế hơn cả đồ ăn của những người được hưởng trợ cấp, tinh
tế hơn cả đồ ăn của vua chúa và bộ trưởng, tinh tế hơn cả đồ ăn của các vị cai
quản hoàn vũ. Tinh tế hơn cả các đại thần cai quản trái đất. Tinh tế hơn cả Tứ
Ðại Thiên Vương cai quản bầu trời. Ðồ ăn của loài sau lại tinh tế hơn loài
trước. Ðến độ của cả chư Thiên cõi Dạ ma Yama và chư Thiên cõi Tha Hóa Tự Tại Paraimittavasa
[332] mà đồ ăn của họ thì đạt đến mức tinh tế hoàn hảo.
Còn đối
với các trạng thái, v.v... đoàn thực thì có trạng thái là bổ dưỡng, phận sự của
đoàn thực là bồi bổ sắc pháp cho người ăn. Duy trì sắc pháp là cách thành tựu.
Và sắc pháp được nuốt xuống bụng là nguyên nhần gần.
Trong
việc diễn giải từ ‘phi y sinh’[98] vì bị sắc ý sinh bám chặt lấy, nhưng lại
không bị bất kỳ điều gì khác bám chặt được. Chính vì thế sắc phi y sinh này
không những chỉ bám chặt lấy mà còn thực sự bám chặt lấy nữa là đàng khác.[99]
Xúc là điều có thể biết được khi ta sờ mó tới. Từ kép trong bản văn Kinh Phật
là ‘điều có thể đụng chạm tới được.’ Cộng với các ‘xứ.’ từ kép ‘thủy giới’
chính là điều ta gọi là thủy và ‘giới’ hiểu theo nghĩa là một trạng thái tự
nhiên thực chất không phải là một thực thể, mà chỉ là trống rỗng (vô ngã).
Ðến đây
vì ba loại sắc pháp có thể sờ mó và biết được. Chính vì thế để phân loại và
chứng tỏ chúng như chúng ta đã đề cập đến ta đặt câu hỏi, ‘sắc là sắc xúc
xứ[100] là gì vậy?’ (1) đó là địa giới, có trạng thái là sự cứng rắn, có phận
sự là điểm tựa[101] (đối với các pháp sanh) và thành tựu ở chỗ chấp nhận chúng.
(2) Hỏa giới, có trạng thái là sức nóng, phận sự là làm cho chín và thành tựu ở
chỗ tạo ra đặc tính mềm mại (là các pháp đồng sanh). (3) Phong giới có trạng
thái là tăng cường sức lực, phận sự là đẩy về phía trước, và thành tựu là đem
đến gần và mang đi, và loại giới được nhắc nhớ đến ở đây đầu tiên, đó là thủy
giới có trạng thái chảy rịn, có phận sự sinh sản (các pháp đồng sanh) và thành
tựu ở việc thâu tóm chúng lại với nhau. Mỗi cách trong bốn yếu tố này có ba yếu
tố ngoài ra là nguyên nhân gần của chúng.
‘Cứng’
có nghĩa là ‘rắn chắc,’ ‘mềm’ có nghĩa là không rắn chắc. ‘Nhẵn’ có nghĩa là
bóng láng. ‘Nhám’ có nghĩa là ‘xù xì’. ‘Lạc’ có nghĩa là muốn sờ mó tới để tạo
ra thọ lạc. ‘Khổ xúc’ có nghĩa là không muốn đụng chạm tới vì sẽ tạo ra thọ
khổ. ‘Nặng’ có nghĩa là ‘nặng nề’ ‘nhẹ’ có nghĩa là không nặng. Và ở đây thông
qua những từ như: cứng, mềm, nhẵn nhụi, nhám, nặng, nhẹ’ địa giới được phân
tích. Khi thân này câu hành với mạng quyền nhờ hỏa giới, và nhớ tâm, thì nó trở
nên nhẹ nhàng hơn, mềm mại hơn, [333] và dễ dàng sử dụng hơn. Trong bản văn
Kinh Phật (sutta) ‘nhẹ nhàng’ và ‘mềm mại’ chỉ liên quan đến địa giới mà thôi.
Nhưng cặp từ: ‘lạc xúc’ và khổ xúc’ lại thuộc phần phân tích ba sắc đại hiển,
có nghĩa là, địa giới, hỏa giới và phong giới. Vì đang khi địa giới tạo lạc
xúc’ cũng như khổ xúc cũng vậy hỏa giới và phong giới. Ðối với ba sắc đại này,
thì địa giới cộng với lạc xúc, khi một chàng trai có được bàn tay mềm mại và
dịu dàng rửa chân cho bằng sà bông thơm chàng trai đó sẽ thốt lên mà rằng: “Ôi
người yêu, ấn mạnh vào đi, ấn mạnh nữa vào đi, người yêu.’ Hỏa giới cộng với
lạc xúc, khi ở vào mùa lạnh chúng ta mặc quần áo ấm và làm cho tứ chi của ta
nóng lên, ta lại thốt lên ‘ôi ngươi yêu, chườm nóng cho tôi đi.’Phong giới cộng
với lạc xúc, ở vào mùa nóng. Lại có một chàng trai được một phụ nữ hầu cần mẫn
quạt cho thì chàng trai đó sẽ thốt lên:’ôi người yêu, quạt đi, quạt nữa đi,
người yêu ơi.’ Mặt khác, khi một chàng trai được một bàn tay cứng rắn ấn lên
chân, như thể làm gẫy xương cốt chàng và tức khắc chàng trai sẽ đuổi ngay nàng
hầu thô bạo đó đi. Nếu như một chiếc quạt lại đem lại hơi nóng thì ta sẽ bảo bỏ
ngay cái quạt chết tiệt đó đi. Như vậy ta nên hiểu lạc xúc và khổ xúc theo
nghĩa này.
Mười ba
đoạn được tô điểm với bốn phương pháp như sau: ‘Ðối tượng có thể sờ mó được, vô
kiến và hữu đối chiếu, v.v... nên được hiểu theo phương pháp được đưa ra ở trên
về cảnh sắc, v.v... liệu ba sắc đại này có đạt đến một lộ trình xứ một cách
đồng loạt hay riêng rẽ? Một cách đồng loạt. Và liệu chúng có được trình diễn
đập vào thân xứ hay không? Chúng làm được như vậy. Ðang khi biến thành đối
tượng, liệu thân thức có nổi dậy sau chỉ một động tác đụng chạm hay không? Thân
thức không làm được như vậy. Vì đối tượng trở thành như vậy nhờ vào khuynh
hướng có cân nhắc hoặc tự thâm nhập. Ðối với những cách lựa chọn này, hoặc là
khunh hướng có cân nhắc hay tự thâm nhập nên được hiểu như sau: - Khi bình bát khất
thực chứa đầy đồ ăn được đem tới, người nào cầm lên một miếng đồ ăn và nhìn kỹ
xem nó cứng hay mềm thì người đó chỉ khảo sát địa giới mà thôi, cho dù lúc đó
hỏa giới cũng như phong giới có thể xuất hiện. Người nào khám phá và kiểm tra
bằng cách để tay vào nước nóng thì chỉ khảo sát hỏa giới mà thôi, tuy nhiên địa
giới và phong giới vẫn xuất hiện như thường. Một người nào đó để cho gió thổi
vào người bằng cách mở cửa sổ trong mùa nóng, thì chỉ khảo sát đang khi gió chỉ
đập vào mình một cách phơn phớt và nhẹ nhàng mà thôi. [334] phong giới, cho dù
địa giới và hỏa giới cũng có mặt. Như vậy đối tượng tâm chỉ được thực hiện
thông qua sự cân nhắc có thận trọng mà thôi. Nhưng ai đó trượt té hay đập đầu
vào một cây, hay đang khi ăn mà nhai phải một hòn sạn được coi như là đối tượng
tâm chỉ có địa giới mà thôi, vì lý do có đặc tính tự thâm nhập. Mặc dù ở chỗ
người đó trượt chân thì hỏa giới và phong giới vẫn hiện hữu. Người nào dẫm chân
lên lửa thì chỉ có yếu tố hỏa giới làm đối tượng mà thôi, do bởi yếu tố tự thâm
nhập cho dù địa giới và phong giới vẫn có mặt tại đó. Khi một luồng gió mạnh
đập vào tai một người điếc người đó không nghe gì cả. Cho dù địa giới và hỏa
giới vẫn có ở đó, phong giới một mình được trở thành đối tượng vì do chính
phong giới tự thâm nhập của nó mà ra. Thân thức của một người nào đó cố ý thực
hiện bất kỳ cảnh xứ nào của tâm sẽ không xuất hiện ngay lập tức. Tiếp xúc của
người nào đó đụng phải một số đinh gút đâm vào tay thì tức khắc vị kích thích
ngay. Nhưng bất kỳ ở chỗ nào thân thanh triệt bị thâm nhập, thì thân thức xuất
hiện. Và bất kỳ ở chỗ nào sự va chạm nổi lên mạnh mẽ thì ở đó thân thức nổi lên
trước. Khi rửa một vết thương với một chiếc lông gà, những sợi lông nhỏ có thể
đụng vào thân thanh triệt của vết thương. Nhưng thân thức chỉ nổi lên ở chỗ nào
có thanh triệt tế nhị phải chịu đựng mà thôi. và chỉ ở chỗ nào có va chạm mạnh
thì chúng ta mới có được đối tượng thông qua sự thâm nhập đó, và thông qua thâm
nhập đó thì thân thức được cho là nổi lên.
Nhưng
làm thế nào mà tâm lại thay đổi được đối tượng? Chỉ bằng hai cách: thông qua
ước muốn của đối tượng, hay do sự thừa dư đối tượng (mới). Ðể giải thích thêm:
có một người nào đó đi đến lễ chùa được tổ chức tại một ngôi chùa kia, v.v...
với ước muốn bầy tỏ lòng cung kính trước một số bảo tháp, một số Tỳ-khưu, một
số tượng Phật, và chiêm ngắm những công trình trạm trổ và hội hoạ, và khi người
này đã tỏ lòng tôn kính và chiêm ngưỡng một ngôi chùa hoặc một bức tượng Phật
rồi lại có ý định tỏ lòng tôn kính và muốn chiêm ngưỡng một nơi khác, và ra đi.
Ðây chính là sự thay đổi ước muốn của người đó. Và có người nào đó đứng trân
nhìn ngắm một bảo tháp vĩ đại như là một ngọn núi bạc. Khi mà sau đó một đoàn
hợp tấu nổi nhạc lên, từ bỏ cảnh sắc, và chuyển sang cảnh thinh; khi hoa lá và
hương nhang toả mùi thơm ngát được đem tới, người này lại bỏ cảnh thinh và
chuyển sang cảnh khí, chính vì vậy mà ta nói tâm thay đổi đối tượng do sự thừa
dư đối tượng [mới].
[335]
trong việc diễn giải thủy giới.[102] ‘Chất lỏng’[103] là một từ rất tự nhiên,
cho dù có thể là Apo hay là apagata; ‘rỉ thấm’ là đặc tính do hoá lỏng mà ra
cho dù có thể là chất dính sineba hay là sinehagata. Sắc kết dính là một nguyên
nhân kết dính sắc đại hiển như là địa giới, v.v... vì thủy giới liên kết sắt
lại với nhau, v.v... làm thành khối biến chúng thành rắn chắc. Chính vì chúng
được liên kết lại như vậy chúng được gọi là cứng rắn. Tương tự như vậy trong
trường hợp các cục đá, núi, hạt cây là buôn, ngà voi, sừng bò, v.v... thủy giới
liên kết toàn bộ những thứ đó và biến chúng thành rắn chắc; chúng trở nên rắc
chắc chính là vì chúng được liên kết lại với nhau.
Có phải
địa giới là nền tảng của các giới còn lại thông qua tiếp xuùc với các giới đó
hay không? Nói cách khác, có phải thủy giới đang lúc liên kết các giới còn lại
với nhau, lại liên kết bằng cách tiếp xúc hay không? Ở điểm đầu tiên, địa giới
là nền tảng của sự kết dính đó mà không cần tiếp xúc gì cả; nhưng do bởi là nền
tảng yếu tố hỏa giới và phong giới nên chỉ trong việc tiếp xúc với chúng mà
thôi. Nhưng thủy giới liên kết ba sắc đại hiển khác mà không có tiếp xúc với
chúng. Bằng không nó có thể được gọi là cảnh xúc mà thôi. Và cũng giống như vậy
đối với hỏa giới và phong giới trong việc thực hiện chính nhiệm vụ của nó liên
quan đến hai giới còn lại. Ðối với hỏa giới tiếp xúc với với địa giới và nấu
chín nó. Nhưng giới sau này không bị đốt cháy do bản chất sức nóng nội tại. Nếu
hỏa giới có thể làm được như vậy, nó có thể được xác định là có trạng thái đang
làm nóng. Và hỏa giới tiếp xúc với thủy giới và lại làm cho giới này khô đi, ấy
vậy mà giới sau này không hề bị khô héo đi do bởi bản chất nội tại của sức
nóng. Nếu yếu tố này làm được như vậy thì có thể xác định được đó là có trạng
thái là nóng. Và hỏa giới đụng chạm với phong giới và làm cho yếu tố này nóng
lên. Ấy vậy mà giới sau này không hề bị hâm nóng lên do bởi nó có bản chất nội
tại là sức nóng. Nếu giới này làm được như vậy thì có thể được xác định là
trạng thái là bị làm nóng lên. Và phong giới đụng chạm với địa giới và tăng
cường sức mạnh cho giới này và như vậy nó cũng thực hiện được cùng một việc
giống như hỏa giới vậy. [336] Nhưng giới này có thể tăng cường sức mạnh được
cho thủy giới mà không cần đến tiếp xúc. Có phải khi một cục đường thô được làm
ra từ việc nấu nước đường mía lên hay không? Ðây được coi la thủy giới cứng rắn
phải không? Không cứng rắn đâu. Vì nó có trạng thái mang tính rỉ chảy đó là địa
giới có đặc tính cứng rắn trong đó. Và sự kết dính thiếu hụt đó lại trở thành
địa giới thái quá. Tuy nhiên, giới này loại bỏ đi trạng thái rỉ chảy (chất
lỏng) chứ không phải là trạng thái rỉ (chảy lỏng) của nó. Cho dù một cục đường
thô có thể được rút lại hay nghiền nát ra. Thì địa giới lại không thể nghiền
nát được. Tuy nhiên giới có trạng thái rỉ là cứng rắn; thì thủy giới lại có
trạng thái rỉ là lỏng chảy. Và địa giới thiếu hụt trở nên thủy giới thái quá.
Nó loại bỏ chính trạng thái là một cục, nhưng lại loại bỏ trạng thái của chính
nó. Vì có sự chuyển hoá nơi hiện trạng (nhờ vào tình trạng thiếu hụt hay thái
quá) nơi Sắc Tứ Ðại Hiển vậy.[104] Nhưng không thể xảy ra một điều được cho là
thay đổi trạng thái. Vì không có sự thay đổi trạng thái như vậy được chứng minh
trong Kinh Atthamaparikappa như sau: “Thực vậy, hỡi Ananda,về các giới có thể
biến đổi trạng thái của mình sớm hơn là có thể đối với Thánh đệ tử được phú cho
đức tin chắc chắn nơi đức Phật bị thay đổi.[105] Vì đây là ý nghĩa của đoạn
kinh này: - hỡi Ananda. Ðịa giới với trạng thái là cứng rắn có thể thay đổi và
được gọi là thủy giới với trạng thái là rỉ chảy, nhưng không có bất kỳ thay đổi
nào nơi Vị Thánh đệ tử cả. Như vậy ta thấy hiện trạng không thể thay đổi được
nhắc đến trong Kinh Phật.
Ý nghĩa
của từ ‘thành do thủ,’[106] trong câu sau đây ‘đối với sắc thành do thủ,[107]
nên được hiểu theo phương pháp được đưa ra trong Bài Pháp về bản nội dung.
Nhãn xứ,
v.v... đã được đề cập đến khá dài ở trên. Ở đây chúng ta sẽ chỉ nói đến những
trạng thái mà thôi. Trong phần diễn giải về từ ‘do thủ’ các xứ được đề cập đến
duy chỉ từ khía cạnh này liên quan đến ‘thành do thủ’ và bởi vì cảnh xứ cũng là
thành do thủ, nói một cách ngắn gọn, chính vì thế chúng ta đã chứng minh được
dưới khía cạnh ‘hoặc bất kỳ điều gì’. Ở đây nói rộng ra thông qua phương pháp
bắt đầu với ‘sắc do nghiệp tạo.’ Bằng cách này thì ý nghĩa toàn bộ, ‘hoặc bất
kỳ điều gì’ nên được hiểu như vậy.
Nhưng tại
sao, trong cả hai phần diễn giải, lão hóa (decay)và vô thường lại không được do
nghiệp chướng tạo và không do ‘nghiệp chướng đã đem lại?’ tại sao chúng chỉ
được diễn giải là ‘phi thành do thủ’ mà thôi.? v.v...[108]
[337]
Trong câu ‘không do nghiệp chướng tạo’, vật chất (sắc) lại xuất phát từ một
nguyên nhân khác với nghiệp chướng. Trong câu ‘chỉ do nghiệp chướng tạo’ như
vậy sắc khởi chỉ khởi xuất từ nghiệp chướng mới được đề cập đến’ và cả hai điều
này, đó là lão hóa và vô thường lại không xuất hiện từ nghiệp chướng[109] bao
giờ, hoặc giả từ bất kỳ nguyên nhân tác thành Sắc nào khác. Chính vì chúng ta
không đề cập đến ở đây, vì cả hai tình trạng này đã không nổi lên như vậy nên ý
nghĩa ở đây đã quá rõ. Và nghiên cứu câu ‘phi thành do thủ’, v.v... cả hai hiện
trạng xuất hiện thông qua nghiệp chướng. v.v... đã bị loại bỏ, và hiện trạng
xuất khởi từ một nguyên nhân khác đã không được đưa ra ở đây. Chính vì thế
trong việc diễn giải này cả hai hiện trạng này đã không được đề cập đến.
Trong
việc diễn giải ‘được phát xuất từ [hay xuất phát từ]tâm tâm sở hành,[110] vì
cặp từ ‘thân biểu tri’ khẩu biểu tri,’ xuất hiện có tương quan với (hiện tượng)
chỉ xuất phát từ tâm mà thôi, vì thế cho nên điều này đã được đề cập đến ở đây.
Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa tuyệt đối, chỉ có hiện tượng nhờ đó mà hai biểu tri
này phụ thuộc vào được xuất phát từ tâm, là bởi vì chính từ việc phụ thuộc nơi
tưởng như vậy mà lão hóa và tử thuốc sắc vô thường được gọi như vậy. Cũng vậy
hai loại biểu tri này đã được biết đến như là xuất phát từ tâm vậy.
Cùng một
phương pháp trong việc diễn giải từ ‘đồng sanh với tâm.’[111] Bởi vì chúng xuất
hiện như là tâm, chính vì thế cặp câu hỏi này đã được đặt ra. Tuy nhiên, không
phải một sự xuất hiện [chính thống] đồng sanh với tâm như trong trường hợp với hiện
tượng sắc cũng như với thọ, v.v...
Và cũng
như vậy đối với câu, ‘do tâm[112] đồng hiện hữu với tâm’ Vì như vậy [sắc] lại
xuất hiện tương tự như tâm. Chính vì thế mà cặp này được gọi là ‘đối ngược’
nhau.
’Thô[113]’
có nghĩa là dầy và đặc, điều gì có thể chiếm đoạt được nhờ đụng chạm đến sắc
thanh triệt. Vì điều này đã trở thành vật và là đối tượng của tâm. ‘Tế[114]’
nên được hiểu như trái ngược lại với những gì đã nói ở trên.
‘Xa[115]’:
- [một đối tượng có thể ở cách xa] cho dù nó đứng rất gần. Ðiều này xảy ra khi
ta gặp khó khăn đối với thức. Vì không thể nắm bắt được thông qua đụng chạm
tiếp xúc. Từ phản nghĩa với xa là ‘gần’[có thể áp dụng cho một đối tượng] cũng
ở xa. Ðiều này xảy ra khi có sự dễ dàng trong thân thức, vì đối tượng này có
thể chiếm được thông qua va chạm trực tiếp (tiếp xúc).
Diễn
giải về nhãn, v.v...[116]nên được hiểu một cách dài dòng bằng phương pháp đã
đưa ra ở trên.
[338]
Ðến thời điểm này đây là điều được cho là đã được phân định rạch ròi trong hai
phần tóm lược[117] về Sắc.
Tập tóm
lược thứ ba đã có ý nghĩa quá rõ ràng.
Vào cuối
tập tóm lược thứ tư. Vì thiếu phần phân chia thành các đoạn trong các từ cuối
cùng trong câu, ‘sắc bị thấy’, v.v... bỏ qua việc điều nghiên ngay từ đầu và
được cho là: cảnh sắc, là đối tượng được thấy, cảnh thinh là đối tượng được
nghe[118]. Ở đây có thể thấy bằng cách nhìn với con mắt vào một cảnh sắc – như
vậy đối tượng đã trở thành một “pháp được nhìn thấy.” Lại có thể nhĩ thức nghe
được thinh xứ bằng tai. Như vậy đối tượng này lại trở thành ‘pháp được nghe.’
Ba khí xứ, vị và xúc, ‘được cảm nhận là’ (mutam[119]) cái có thể đoạt được và
được hiểu theo nghĩa đã được trình bầy đến ở trên. người ta cũng cho là đây là
điều ‘được cảm nhận’là lý do xuất khởi tâm khi có tiếp xúc diễn ra. Như vậy đấy
cũng là điều đã được đề cập đến trong tập tóm lược. Toàn bộ Sắc nên hiểu như
vậy thông qua ý thức – và như đây cũng là ‘ý thức’ vậy.
Trong
phần diễn giải Tập Bản Tóm Lược [120] số năm, ‘cứng’ có nghĩa là rắn chắc.
Khara (nhám) cũng được viết là kharagata; và có nghĩa là ‘thô,’. Hai từ khác
cũng chỉ bản chất nội tại. ‘nội phần’ tức thuộc về ‘mình’. ‘Ngoại phần’ tức là
ở bên ngoài. ‘thành do thủ’ lại khởi xuất từ nghiệp chướng mà ra. Tuy nhiên,
nhìn chung ở đây ta chỉ ám chỉ Sắc được thiết lập nơi thân mà thôi. Tuy nhiên,
cho dù đặc tính của Sắc như vậy bị chấp thủ hay không, toàn bộ những gì đã được
hiểu như là ‘thành do thủ’ bằng cách nắm lấy được, chiếm đoạt được, và chỉ đơn
giản là sử lý sai lầm.
Tejogata[121]
tức là sắc với trạng thái là sức nóng. (lego) lại gồm trong đó (gata) toàn bộ
sức nóng hay nhiệt năng. Hoặc là sức nóng đã ‘biến’ thành một hiện trạng sức
nóng sự hâm nóng (usmā) là một cách nóng. Usmagata chính là biến thành một hiện
trạng sức nóng rất mạnh, và là tên dành cho trạng thái sức nóng gay gắt đó. Usuma
chính là sức nóng cực mạnh. Những gì đã biến thành trạng thái như vậy được gọi
là usumagata. ‘phong giới’ tức là di chuyển liên tục. Di động đã biến thành một
hiện trạng như vậy và được gọi là vayogata. ‘thổi phồng’ là một hiện trạng rắn
chắc nơi sắc giống như thân cây sen, túi cách da, v.v...khi được bơm khí đầy
vào.
[339] Vì
thiếu tính chất khác biệt nơi lời kết thúc tam đề. Tóm Lược bắt đầu với lục đề,
thế nên cách diễn giải đã được thực hiện mà không đưa ra bất kỳ một thắc mắc
nào ngay từ lúc bắt đầu. Ở đây câu ‘sắc mà nhãn thức ứng tri,’có nghĩa là ‘có
thể nhận thức được bằng mắt[122]’ ‘ý ứng tri’ có thể biết được bằng ý thức. Ta
có thể biết một cách đặc biệt bằng ‘ba ý giới’Trong câu ‘toàn bộ vật chất
(sắc).’ Ðiều này được nói ra vì không có bất kỳ điều gì thuộc bất kỳ pháp nào
không thể nhận biết được bằng ý thức giới. Tuy nhiên, Ðức Thế Tôn bậc Toàn Giác
chưa bao giờ bỏ lỡ cơ hội thích hợp, để ngài sử dụng khi ngài tiếp cận với Vi
Diệu Pháp (Abhidhamma). Cơ hội thích hợp để sử dụng các phương pháp được gọi
như vậy làvì thiếu bất kỳ loại sắc nào không thể nhận thức được bằng ý thức
giới. Chính vì thế qua sử dụng phương pháp ngài đề cập đến là ‘toàn bộ thể chất
(sắc)’.
‘Lạc
xúc’[123] là nguyên do đạt đến cảm thọ sảng khoái. ‘khổ xúc’ cũng là nguyên do
đạt đến cảm thọ đau đớn. Trong hai cách diễn đạt này thì phương pháp này cũng
được đưa ra vì cảnh xúc chính là nhân duyên[124] của lạc và khổ.
Và cửu
đề[125] nơi phương pháp đã được đưa ra vì tính hiện hữu của sắc được gọi là
quyền vì đối với sắc hữu đối chiếu cũng như vô đối chiếu thì phương pháp lại
được đưa ra ở thập đề[126]
Trong
thập nhất đề[127] thì mười và một nửa các bộ phận đã được sắp xếp. Ðoạn diễn
giải này nên được hiểu bằng một phương pháp khá dài đã nêu ở trên. điều nhắc
nhớ đã quá rõ ràng ở khắp mọi nơi.
Và để
không lầm lẫn với khía cạnh đối với những sắc pháp này. ta nên cứu xét đến tính
đặc thù hoá này đó là: - đặc tính phối hợp, đặc tính sanh khởi, đặc tính tiền
định và đặc tính duyên khởi.
Ở đây
đặc tính phối hợp là coi toàn bộ sắc (pháp) thành bọn. hoặc đoàn, lên tới hai
mươi lăm; từ nhãn xứ xuống cho đến sắc đoàn thực, cảnh xúc, thủy giới. Toàn vộ
những đặc tính này cộng chung với sắc vật làm thành hai mươi sáu. [340] chẳng
còn bất kỳ sắc (sắc nào) ngoài những sắc (form) kể trên nhưng một số người[128]
có thể nói.: vẫn có Sắc thứ tự nơi người thụy miên. Họ nên nói với những hạng
người này như sau: Chắc chắn ngài là Bậc Hiền Triết, tức là Ðấâng Thế Tôn, nơi
Ngài sẽ chẳng có bất kỳ triền cái nào cả.’ Và kiểm tra lại như sau: chẳng có sự
ấy bao giờ.’ Một số người khác lại cho rằng có cả thảy hai mươi bẩy loại sắc
cộng với sắc sức mạnh, hai mươi tám cộng với sức mạnh sắp xếp. Hai mươi chín
cộng với sắc tái sanh, và lên tới ba mươi cộng chung với sắc bệnh tật. Các vị
Luận sư này nên từ chối những sự không hiện hữu của các sắc pháp được thêm vào
như đã được chứng minh tuần tự. Khi phong giới được cứu xét đến sắc sức mạnh
cũng vậy, không có sắc khá sắc thứ tự, cộng với thủy giới thì cùng với cả yếu
tố bệnh tật và lão hóa rồi đến vô thường; chẳng còn điều gì thêm nữa. Bệnh tật
ở tai và các loại bệnh tật khác chỉ thực sự là yếu tố khởi sinh ra bằng những
nguyên nhân không thích hợp. Chẳng còn loại bệnh tật nào khác nữa. Chính vì thế
nhìn chung chỉ có cả thảy hai mươi sáu sác pháp mà[129] thôi.
‘Khởi
sanh’. Bao nhiêu sắc pháp có bấy nhiêu nguồn gốc có phải không? Có mười sắc
pháp có một nguồn gốc. Một có hai nguyên nhân, ba có ba nguyên nhân, chín có
bốn nguyên nhân, hai không có nguyên nhân nào cả. Về những sắc pháp này, thì
tám. Có nghĩa là nhãn xứ xuống cho tới sắc mạng quyền. Thực chất có nguồn gốc
từ nghiệp tạo một đôi gọi là thân biểu tri khẩu biểu tri thực sự có nguồn gốc
do tâm tạo. Như vậy thì có mười sắc pháp với một nguồn gốc duy nhất. Cảnh thinh
[đối tượng nhĩ thức] lại phát sinh từ quý tiết] và tâm tạo đây chính là một sắc
pháp có hai nguồn gốc. Trong số cảnh thinh, những âm thanh không thể hiểu được
phát xuất từ quý tiết, những âm thanh hiểu được xuất phát từ tâm. Có ba sắc đó
là: khinh, như, và thích nghiệp có nguồn gốc từ quý tiết, tâm và dinh dưỡng.
Như vậy ta có ba sắc với ba nguồn gốc. Sắc còn lại trong số chín sắc có cả hai
nguồn gốc lẫn nghiệp chướng nữa. Như vậy có chín sắc với bốn nguồn gốc. Còn lão
hóa và vô thường không phát xuất từ bất kỳ nguồn gốc nào cả. Và tại sao vậy? Vì
do đặc tính trưởng thành và phá vỡ đặc tính sắc, đã tạo ra chúng, bởi vì toàn
bộ những gì là vật chất (sắc) và phi sắc đều khởi xuất rồi tàn lụi đi. [341]
Thực vậy ta phải chấp nhận điều này. Vì chẳng có điều gì, sắc cũng như phi sắc
lại xuất hiện, mà không phải trải qua mất mát. Nhưng cho đến khi nào sắc chưa
đổ bể thì một qui trình trưởng thành khác lại xuấât hiện; chính vì thế nên
người ta nói: ‘chính do chín muồi và phân huỷ mà sắc (vật thể) đã được tạo ra’
và đi đến hoàn tất. Và nếu như hai sắc này được tạo ra. Thì chúng cũng sẽ
trưởng thành và tan biến đi. Ðặc tính trưởng thành không thể do chín muồi, còn
tan biến không phải là bị đổ bể. Chính vì vậy từ trạng thái trưởng thành và tan
biến nên vật chất (sắc) đã được tạo ra. Cặp sắc này đã không được tạo thành.
Ðến đây
ta có thể gặp những chống đối sanh lên: -Như trong phần diễn giải bắt đầu với
câu: ‘do nghiệp sở sanh.’ Bằng cách diễn tả: sắc tích trữ, sắc thừa kế; cách
diễn đạt’ khởi sanh được sinh ra,’đã được chấp nhận, chính vì thế cách diễn tả
‘chớ chi để tính trưởng thành hãy chín muồi’. và tan biến cũng hãy đổ bể’ phải
được chấp nhận (Trả lời) Nơi những cách diễn giải đó ‘khởi sanh là được sanh
ra,’v.v... đã không được chấp nhận. Tuy nhiên, toàn bộ pháp nào được khởi sanh
từ nghiệp chướng, v.v... là bởi vì đặc tính phải đầu thai trở lại,[130] thì
giai đoạn sanh khởi thông thường nơi pháp đó được coi như là nguyên nhân của
các pháp đó đã được chấp nhận. Nhưng hiểu theo nghĩa tuyệt đối thì sanh khởi
đâu có xuất hiện. Ðối với những ai được sanh ra thì duy chỉ có hiện trạng đầu
thai cũng đã xuất hiện.
Ðến đây
lại có người đưa ra câu thắc mắc:- Chỉ vì khởi sanh theo như cách sử dụng thông
thường được coi như cả là nguyên nhân tái sanh của các pháp như vậy lẫn chính
tái sanh nữa. Chính vì vậy sự chín muồi và tan biến cũng có được những tên gọi
thông thường như vậy để sử dụng. Nhưng rồi ta cũng phải chấp nhận như là điều
đã rồi cho rằng: cặp sắc này cũng còn có nghiệp chướng, v.v... làm nguồn gốc
phát sanh.’ (trả lời) Tình trạng chín muồi và tan biến không thể có cách sử
dụng thông thường như vậy được. Và tại sao vậy? Là vì hai hiện trạng này không
hiện hữu vào lúc nguyên nhân tác tạo (productive) vẫn còn mạnh. Vì những nguyên
nhân tác tạo chỉ có sức mạnh chỉ vào ngay sát na tác tạo ra một pháp như vậy mà
thôi; chẳng còn gì tiếp theo sau đó cả. Và sanh khởi chỉ xuất hiện vào sát na
các pháp đó sắp sửa trải qua giai đoạn tái sanh do những nguyên nhân tác tạo
đó, có được cách sử dụng thông thường tên của cả hai đều làm nguyên nhân và
hiện trạng tái sanh vậy, và sanh khởi xuất hiện vào ngay sát na đó. Cặp sắc lão
hóa và vô thường không có mặt vào giây phút đó. [chính vì vậy nên không có cách
sử dụng thông thường] ta không thể nói cặp đặc tính này không xuất hiện. Chúng
ta có thể tưởng tượng được là cặp đặc tính này đã xuất hiện do lời tuyên bố sau
đây: ‘Hỡi Chư vị Tỳ-khưu, lão và tử chỉ là vô thường, hữu vi, khởi xuất từ một
nguyên nhân,[131] không phải như vậy đâu. Trong Kinh Phật lời dạy của ngài chỉ
mang tính giải thích. Vì trong đoạn kinh này cặp từ (lão và tử) được cho là phụ
thuộc vào sanh khởi. ‘Nếu như vậy thì bộ ba: - [sanh, lão và tử]- vì không thể
trở thành hiện thực [342] nên không hiện hữu, giống như sừng con thỏ rừng,
không tồn tại. Chính vì vậy [bộ ba nầy] lại là vĩnh cửu giống như Níp-bàn vậy,-
và không rơi vào trường hợp này vì cả ba đều buộc phải phụ thuộc vào những vật
nền tảng. Vì khi có vật xuất hiện –địa giới và những điều khác, thì cặp đặc
tính (sinh, v.v...) được bộc lộ ra. Chính vì thế ta không thể nói bộ ba [sanh
lão tử] không hiện hữu. Cả ba đều hiện hữu. Cả ba cũng được bộc lộ ngay cả
trong trường hợp thiếu vắng vật. Chính vì thế cả ba đều là vô thường. Và để
ngăn cản một tưởng sai lầm mà Ðức Phật đã khẳng định điều này: ‘Hỡi chư vị
Tỳ-khưu, lão và tử là vô thường, hữu vi có nguyên nhân để khởi xuất.’như vậy
bằng cách vận dụng phương pháp này và các phương pháp khác, chúng ta có thể
minh chứng rằng hai sắc pháp này đã xuất phát từ bất kỳ một nguồn gốc nào.
Hơn thế
nữa, từ ‘nguồn gốc’ lại có nhiều ngụ ý khác nhau. Trong tác phẩm Bản Nội Dung
chúng ta thấy sắc khởi sanh từ nghiệp chướng (1) mà ra, sắc (2) được tạo ra
bằng nghiệp chướng, sắc (3) được sinh khởi từ quý tiết cũng do nghiệp chướng,
(4) được sanh khởi từ chất dinh dưỡng, sắc (5) cũng được gây ra từ chất dinh
dưỡng, sắc (7) sinh khởi ra nơi quý tiết, sắc (8) được tạo ra do trật tự nhiệt
lượng, sắc (9) sanh khởi từ quý tiết và do quý tiết này mà được tạo ra, sắc
(10) sanh khởi từ tâm, sắc (11) do tâm tạo ra, sắc (12) khởi sanh nơi quý tiết
cũng do tâm. Tám loại sắc bắt đầu với nhãn xứ cộng với ý vật là sắc khởi sanh
từ nghiệp chướng vậy (1). Tóc, râu, ngà voi,, đuôi ngựa, đuôi bò Tây
tạng...những sắc này đều do nghiệp chướng (2)mà ra. Bảo luân[132], những nhà
cửa vườn tược của các vị chư thiên, cũng đều là sắc sanh khởi từ quý tiết và
nghiệp chướng mà ra cả(3). Công thức tám đặc tính (của sắc) sanh khởi từ chất
dinh dưỡng cũng ám chỉ sắc sanh khởi trong chất dinh dưỡng(4). Sắc đoàn thực là
nguyên nhân của hai sắc thừa kế của cái được sanh khởi từ chất dinh dưỡng và
của thành do thủ. Vì là người tác tạo ra sắc đầu tiên, và cũng là nhân duyên
sanh khởi ra nó; do bởi là người bảo vệ sắc sanh khởi từ nghiệp chướng, nên
cũng là nhân duyên của nó. Sắc này từ nghiệp chướng mà sanh khởi được chất dinh
dưỡng bảo vệ được biết đến với những đặc tính là sắc do dinh dưỡng tạo ra (5)
Những ai đang sống nhờ vào thức ăn không được vừa ý và đi lang thang khắp nơi
dưới ánh sáng mặt trời chói chang mà bị cháy nắng, bị mụn ruổi (mole), cùi hủi,
v.v... là những điều sanh khởi từ quý tiết do dinh dưỡng mà ra(6). Chính vì thế
ta có sắc bát thuần sanh khởi trong quý tiết là như vậy(7). Quý tiết hiện hữu ở
đoàn này tạo ra một bọn bát thuần khác, đoàn này cũng được quý tiết tạo nên
.(8) [343] Quý tiết hiện diện nơi bọn bát thuần khác này còn tạo ra một đoàn
bát thuần khác nữa, sanh khởi nơi quý tiết cũng được quý tiết tạo ra một lần
nữa (9). Như vậy quý tiết có thể tác động lên ba sắc thừa kế nhưng vẫn còn điều
gì khác nữa. Thật thích đáng để ta khám phá ra ý nghĩa này cũng như ý nghĩa của
những điều gì ta không thể nắm được. Mây trời cũng được cho là sanh khởi từ quý
tiết mà ra. Mưa móc như thác đổ cũng được cho là do quý tiết này ra. Rồi khi
mưa rơi, hạt giống mọc lên, trái đất toả ra hương vị, núi đồi trở nên xanh tươi
và đại dương tăng dần thêm.:- sắc (vật chất) như thế được cho là sanh khởi từ
trong quý tiết (9). Ðoàn bát thuần sanh khởi nơi tâm được cho là ‘sanh khởi từ
tâm’ (10). Sắc thân này được định nghĩa là đã hiện hữu từ trước như sau: các
trạng thái thân và tâm của chúng ta có tương quan với tính chất xảy ra sau này
đối với thân đã có trước đó. Ðược tâm tạo ra. (11). Trên trời, trên bầu trời,
ngài vẽ lên một con voi, một con ngựa, một cỗ xe, nhiều lực lượng chiến binh đa
dạng; - điều này cũng khởi sanh trong quý tiết do tâm tạo ra’(12). ‘Ðược tiền
định,’ Có tới mười lăm sắc pháp được cho là ‘được tiền định, mười pháp đại thì
không[133]. Nếu có những sắc pháp phi tiền định, các sắc pháp sẽ được gọi là vô
vi, và sự biến đổi của thân nơi các sắc pháp được xác định này được gọi là thân
biểu tri (body-intimation), thay đổi nơi ngôn ngữ được gọi là khẩu biểu tri. Hư
không giới là bất kỳ khe hở nào hay lỗ hổng nào. Sắc khinh chính là tính nhẹ
nhàng; sắc nhu chính là tính mềm dẻo; sắc thích nghiệp được chính là tính dễ
dàng sử dụng; sắc tích trữ chính là xuất hiện trở thành sắc thừa kế; chính là
một tiến trình tiếp diễn. Lão hóa là một trạng thái mai một đi; vô thường là
một qui trình xuất hiện trở thành [để rồi] lại biến đi. Như vậy toàn bộ sắc đã
‘được tiền định và hữu vi.
Ðến đây
kết thúc việc giải thích chương đề cập đến Sắc pháp trong cuốn diễn giải Kinh
Phật (Expositor), là bài bình luận về Bản Tóm Lược các Hiện Trạng.
-ooOoo-
[1]
Chính ỵojana do tuần chỉ là một khối lượng được ban tới. Trong những cuốn sách
cổ kính nhất hình như tương đương vào khoảng từ bẩy đến tám dậm. – NXB.
[2]
Nahuta= 10.000, ở đây có thể đoán chừng vào khoảng l0.000 do tuần
[3] Dưới
đây, tr. 437, số 1
[4] Bản
văn Vin. iii. 302
[5] Có
nghĩa là Dạ-xoa (Yakkha)
[6] Có
nghĩa là , không có sáu “hetu’ nhân.
[7] Dhs.
§585
[8] Dhs
§ 586
[9]
Hetu. Dhs § 595. có nghĩa là sáu nhân đều là phi sắc (vô hình)
[10] S.
iii. 101
[11]
Sankhāra.
[12]
Dhs., tr. 2
[13] Như
trên §595
[14] Ðọc
ở trên, tr. 61 tt
[15]
B.P.E tr. 168, n.4
[16]
Dhs., tr. 3,1,3.
[17] Như
trên § 584 (kết thúc)
[18]
B.P.E một loại hình thái chỉ do một thuộc tính được cân nhắc đến.
[19]
Dhs. §1116
[20]
Vibh. 306tt
[21]
Không thấy đề cập
[22]
Trung Bộ Kinh (Majjhima) N. 1 i 301
[23] Như
trên
[24] Như
trên
[25]
Không được liệt kê. Cách diễn tả đó trong Thuyết luận sự (Katthavatthu) sắc
chính là chủ đề trong Dhatukatha - Bộ Nguyên Chất Ngữ Xin đọc i. §17 – nxb.
[26]
Dhs. § 596
[27] Văn
bản Burm gọi là upadayati.
[28] Xin
đọc trong P.T.S nxb, amuncitva. Xin đọc ở trên tr. 395.
[29] Dhs
§§597-600
[30] M.
i. 169; xin đọc thêm Dialogues ii. 32; Kindred Sayings i. 174; bản văn Luật
giới i. 88
[31]
Không được đề cập.
[32]
Dialogues ii. 26
[33]
S.ii 213
[34] Xin
xem Dialogues i. 95
[35]
Thanh tịnh đạo tr. 445
[36]
Không có kiểm chứng.
[37]
Không được kiểm chứng.
[38]
Dhs. § 597
[39]
Không có một kinh có tên là như kinh này.
[40] S.
iii. 59; xin đọc thêm S.ii 103
[41]
Hiện hữu nơi ba cõi.
[42] S.
iv. 174
[43]
Dhs. §596
[44] Dhs
§599
[45]
Dhs. §600
[46]
Nghĩa đen...’đã đạt đến được’ (apamma) các tiếng đồng nghĩa khác là
arabbha.sandhaya.paticca. nxb
[47] ‘Ưu
tiên’ những phương cách của ‘cảnh trưởng’ ‘nguyên nhân đủ’ ‘yếu tố cấu thành
thứ mười, thứ hai, thứ ba và thứ chín trong hai mươi bỗn mối duyên giữa các
pháp đã được giải thích trong tác phẩm Bộ Vị Trí (Patthana)
[48] Từ
này có trong một đoạn trong bản văn Dhammasangani P.T.S đã bỏ qua ed §600 ngay
trước cakkhum p’etam. Mười đoạn trong số §600 đã được đem vào tác phẩm B.P.E.
trang.177 tt.- nxb
[49]
Dhs. §597
[50]
Dhs. §601
[51]
Āyuna. (nhập, chứng hội) Có nghĩa là jivitindriyam (mạng quyền) - Pyī
[52]
Dhs. §605
[53]
Dhs. §609
[54]
Sanya cũng có thể mang ý nghĩa là ‘được sảng khoái’
[55]
Dhs. § 613. Kāyo (thân) cũng thi hành nhiệm vụ như là thân xúc xứ. Hay là thân
thanh nhiệt.
[56]
Bhutappasado. Tīkā hiểu theo nghĩa bluta-, mahabhuta. Xin đọc ở phần dưới đây.
Tr. 410.- tr.
[57] Thí
dụ như, ánh sáng là phẩm chất của một ngọn đèn giúp cho mắt nhìn thấy cảnh sắc
âm thanh là đặc tính của di động trợ giúp cho những thức biết cảnh thinh.
[58] Có
nghĩa là, các cảnh sắc xuất khởi từ bốn yếu tố căn bản mà ra.
[59] Như
thể màu sắc của lửa rực sáng và chói sáng làm hoa mắt, của cảnh thinh để nghe
nơi, sức mạnh của gió khoái khẩu của đát, vị ngọt của trong nước.
[60] Xin
đọc định lý toán học hy lạp: kiến thức giống hệt như sự giống hệt đó, thí dụ
trong cuốn De Anima của Aristotle. I. 2.5
[61] Cụ
thể là, một trong Sắc tứ đại. - Pyī
[62] Xin
đọc asampatto trong Hội Thánh Ðiển Pali (P.T.S) nxb.
[63] Xin
đọc asampatto trong Hội Thánh Ðiển Pali, nxb
[64] Gió
mang theo cảnh khí là điều kiện đủ. Nhưng trong việc sử dụng thường ngày thì
cảnh khí lại được gọi là nguyên nhân đủ của cơn gió. – Tīkā.
[65] Hội
Thánh Ðiển Pali. Xb. Xin đọc ti-yama thành niyama.
[66] Xin
đọc ở trên. tr. 405
[67] Về
‘decads’ xin đọc compendium tr. 164, 250 tt.
[68]
Dhs. §617
[69]
Trong cái loạn mầu kỳ quặc nơi nhãn thức người ấn độ, xin đọc B.P.E. tr. 62 n.
1. Tiến sĩ Edridge Green, tác giả cuốn Colour-blindness and colour perception
gọi hiện tượng này là tetrachromic (chỉ nhìn thấy được có bốn mầu nơi hình ảnh
mà thôi... thấy mầu xanh da trời thành mầu tím xanh lá, và gọi đó là tím hay
xanh lá. Theo như sự gần gũi của một trong những mầu này’ xin xem tạp chí
Strand Magazine, tháng 12, 1909: Coulour-blind and its Dangers. Nxb.
[70]
Cũng được gọi (trong ấn bản Fausboll) là Mahavamsa Jataka - Ðại Hội Kinh (v.
359,89) tiếp theo sau là kinh Culahamsa.
[71]
Dhs. §621-24
[72]
Amanussa có thể là nhũng chúng sanh không thuộc loài người. Như trong Mil., tr.
207, ở đây ngược lại với các vị trời thần linh. Tuy nhiên, ở đây được dùng với
một ý nghĩa chung chung hơn như là trái ngược với lý luận. Nxb.
[73]
Dhs. §§625-28
[74]
Dhs. §§629-32
[75] Hay
là base (vatthu)
[76] Xin
đọc Thanh Tịnh Ðạo tr. 447. Ở đây cũng vậy khẩu vị không đóng vai trò gì nơi vị
xứ cả.
[77]
Dhs. §633
[78]
Tīkā
[79]
Vin. iii 35
[80] Ðó
là những đặc tính và những tướng. - Tr
[81]
Dhs. § 635
[82] Xin
đọc ở trên tr. 197. Dhs.§19
[83]
Dhs. §636
[84] Xin
đọc phần III., tr. 109
[85]
Dhs. § 637
[86]
Dhs. §638
[87]
Dhs. §639-46
[88] Xin
đọc tr. 199 tt.
[89]
Thêm na trong tác phẩm Hội Thánh Ðiển Pali. NXB tr. 326
[90]
Trong Kinh Phật cũng có đề cập đến ‘chất dinh dưỡng’, v.v...
[91].
Yogino
[92]
Dhs, §§642-643
[93] Có
nghĩa là năm xứ là nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ và thân xứ và năm đối tượng
là cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị và cảnh xúc và mười sáu sắc
tế, làm thành một phần(một nửa) trong số sáu mươi chín pháp được liệt kê như là
dhammāyatana hay là pháp xứ. Xin đọc Compendium, tr. 184.- Tr.
[94]
Cũng vậy việc tích lỹ chính là trạng thái và xứ là sở hũu chủ của trạng thái
này. Chính vì thể mà chúng mang đặc tính tương quan và được đề cập đến chung
với nhau.- Tīkā
[95] Câu
này không tìm thấy trong văn Hội Pali. Nxb- tr.
[96]
Dhs. § 644
[97] xin
đọc ‘karana’
[98]
Dhs. §647
[99] Xin
đọc Pyī.
[100]
Dhs. §§648-51
[101]
Hay có thể là platform (patithana)
[102]
Dhs. § 652
[103] Apo (nước, chất lỏng) thấy trong các từ triết học có
nghĩa là bandhanatta. Ðặc tinh kết dính.
[104]
Như thể trở thành chất lỏng, hay mật đường mềm hoặc rắn và đây là cách trở
thành rắn của chất lỏng.
[105]
Tăng chi bộ kinh (Anguttara)
[106]
Upadinna: - ‘thành do thủ,’ b.p.e., trang 201, 323 số 1 xin đọc trong
Compendium
[107]
Dhs. §§653 tt.
[108]
Dhs. §656
[109]
Các điểm tranh luận (Points of Controversy) tr. 207 tt.
[110]
Dhs. §667
[111]
Dhs. §669 B.P.E có nghĩa là cùng xuất hiện với tâm.
[112]
Dhs §671 B.P.E có nghĩa là xuất hiện liên tục với tâm.
[113]Dhs
§675
[114]
Dhs §676
[115]
Dhs §677
[116]
Dhs §§675-741
[117]
Dhs §§653-741
[118]
Dhs §961
[119]
Mutam: có nghĩa là được tưởng tượng ra.’ B.P.E., tr. 239
[120]
Dhs §§962- 66
[121]
Dhs §967
[122]
Dhs. §969
[123]
Dhs §970
[124]
Sabbhabvato (hay là đọc là sabbhavato) nhờ sự tồn tại hay thể hiện của lạc, khổ
đang có một cảnh xúc. Tr.
[125]
Dhs §971
[126]
Dhs §974
[127]
Dhs §978
[128]
Những cư dân tại Abhayagiri
[129]
Xin đọc Compendium
[130]
Abhinibbatti: B.P.E., tr. 271, ‘được tái tạo dựng’
[131] S.
ii. 26.
[132]
Dialogues ii. 202 tt.
[133]
Parinipphannan tf từ này khẳng định như thể được thấy trong Kinh Phật; nhưng
không thấy đề cập đến trong Hội Kính điển Pali. (P.T.S). NXB. Dịch giả tiếng
Anh không sử lý theo như trong tác phẩm Miến Ðiện. Trong một danh sách hai phần
(tích cực, tiêu cực) về các thuộc tính thấy trong Thanh Tịnh Ðạo tr., 450
Buddhaghosa đã thêm vào cặp từ này. xin đọc Các Ðiểm Tranh Luận (points of Controvery)
tr. 308,396. nxb.