Chương IV
ÐỆ TỨ
THIỀN
Trong phần chú giải về đệ tứ
Thiền, có mệnh đề ‘đoạn trừ lạc và khổ[57]’ có nghĩa là
loại bỏ lạc và khổ thuộc các sở hữu tâm.
‘Trước
đây’ có nghĩa là đoạn trừ lạc và khổ xảy ra trước, chứ không xảy ra vào sát na
đệ tứ Thiền.
Mệnh đề
‘diệt hỷ và ưu’ cụ thể là sự sảng khoái về tâm và đau khổ thuộc về tâm đã được
nói đến, [176] bởi vì điều đã qua đi trước đó, nên có thể loại bỏ được hai cảm
giác này. Khi nào ta có thể loại bỏ được hai cảm giác này? Thưa vào những sát
na[58] ‘đạt đến’ bốn bậc Thiền Ðịnh (Jhāna); vì hỷ bị
loại bỏ ngay sát na đệ tứ thiền; còn khổ ưu, và lạc bị loại bỏ (một cách tương
ứng)vào những sát na đệ nhất thiền, đệ nhị và đệ tam thiền. Do đó, mặc dù chúng
không được khẳng định tuỳ thuộc vào giây phút liên tục chúng bị loại bỏ một
cách tương ứng, tuy nhiên, chúng ta nên hiểu ngay cả do kết quả trong cả hai
quyền trong phần kết luận về các năng lực làm chủ cả trong Quyền-Phân biệt[59] (Indriya-Vibhanga) lẫn ở đây.
Nhưng
nếu chúng bị loại bỏ trong những sát na thiền Jhāna trước bậc này hay bậc nọ,
vậy thì tại sao người ta lại nói (rằng việc kết thúc từng bậc thiền lại nằm
trong chính các bậc thiền Jhāna đó) như vậy: ‘khổ quyền phát sanh tan biến hoàn
toàn ở chỗ nào? Nầy chư Tỳ-khưu, trong trường hợp có chư vị Tỳ-khưu nào thực sự
xa rời khỏi những dục lạc... thì nhập được vào và trú trong đệ nhất Thiền. Ở
đây, khổ quyền vốn đã xuất hiện kết thúc hoàn toàn... Vậy thì những ưu
quyền,... lạc quyền, ... và hỷ quyền vốn đã xuất hiện bị hoàn toàn loại bỏ ở
chỗ nào? Nầy chư Tỳ-khưu, trong trường hợp này một khi chư vị Tỳ-khưu đó đã
đoạn trừ hỷ... thì thâm nhập được vào và trú trong đệ tứ Thiền. Ở đây, hỷ quyền
vốn đã xuất hiện kết thúc hoàn toàn[60].
Ðiều này
được nói lên là do những quyền này kết thúc hoàn toàn. Bởi vì trong các qui
trình thiền Jhāna, việc kết thúc được hoàn tất, chứ không chỉ bắt đầu; vào sát
na cận thiền thì việc kết thúc các qui trình thiền chưa hoàn tất. Thực vậy tuy
các qui trình đó vẫn chưa được hoàn tất trong quy trình đệ nhất thiền, với một
hướng tâm khác, tuy nhiên, ở đó khổ quyền, thông qua (tiếp xúc với) bị ruồi
muỗi, nhặng mòng trích chẳng hạn v.v..., hoặc do ngồi thiền ở một vị thế không
bằng phẳng; tuy nhiên nơi chư vị Tỳ-khưu tham thiền nhập định, thì quyền đó
không được tạo ra; hoặc khổ quyền này kết thúc vào ngay sát na quy trình tâm
vẫn chưa hoàn toàn kết thúc được, vì khổ quyền này không hoàn toàn bị tiêu diệt
do chính những (quyền) đối nghịch với nó. Ngoài ra, mặc dù đã bị loại bỏ, nhưng
ưu quyền vẫn có thể xuất hiện vào qui trình tâm đệ nhị thiền, với một hướng tâm
khác. Tại sao quyền này lại xuất hiện khi khổ thuộc về thân và khổ thuộc về
tâm, cộng với Tầm và Tứ làm nguyên nhân, và lại không xuất hiện khi không có
Tầm và Tứ? Thưa vì quyền này chỉ xuất hiện, khi có Tầm và Tứ; Tầm và Tứ không
bị đoạn trừ vào qui trình tâm đệ nhị thiền; nhờ đó mà quyền có thể xuất hiện
được. Nhưng do sự đoạn trừ nguyên nhân đệ nhị thiền, do đó không có quyền này.
Tương tự như vậy, mặc dù đã bị đoạn trừ, nhưng nơi một người có đầy tinh tế do
hỷ lạc tạo ra, thì lạc quyền vẫn có thể xuất hiện vào lúc đạt thấu đệ tam
thiền; này không thể xuất hiện trong bản thân đệ tam Thiền, bởi vì hiện trạng
hỷ, vốn là nguyên nhân của lạc, đã hoàn toàn bị tiêu diệt ở đó.
[177]
Tương tự như vậy, mặc dù đã bị đoạn trừ, nhưng hỷ quyền vẫn có thể xuất hiện
vào qui trình tâm đệ tứ thiền; bởi vì quyền này gần gũi và không quá trội vượt,
do xả vốn đã không-hiện hữu nơi vị Tỳ-khưu đã tham thiền nhập định; nhưng quyền
này không thể xuất hiện trong bản thân đệ tứ Thiền được. Do đó, trong nhiều nơi
khác nhau, từ ‘hoàn toàn’ đã được thừa nhận như trong câu ‘Ở đây, khả năng nổi
dậy khổ quyền đã hoàn toàn Kết thúc’.
(Có thể
sẽ có người phản đối) Tại sao những thọ này, vốn đã bị loại bỏ trong các giai
đoạn thiền Jhāna khác nhau, lại qui tụ lại với nhau trong đệ tứ thiền?
Thưa đó
là do mục đích để hiểu rõ chúng một cách dễ dàng. Nói cách khác: - trong cụm từ
‘chẳng có khổ cũng như lạc’ gì cả, thọ xả này (được bộc lộ) thật tinh tế và khó
hiểu. Thật không dễ gì hiểu rõ được cảm thọ này. Chính vì thế, giống như để bắt
được một con bò đực dữ dằng, không dễ gì bắt được nó chỉ bằng cách tiếp cận nó
bất cứ cách nào, người chăn bò phải nhốt tất cả những con bò vào trong một
chuồng rào kín, rồi thả ra từng con một, và khi đến lượt con bò đực định bắt đi
ra ngoài, người đó liền ra lệnh: ‘Hãy bắt lấy nó!’, cũng vậy, nhằm mục đích
giúp chúng ta dễ dàng hiểu được thọ xả đó, Ðức Thế Tôn đã gây ra tất cả mọi cảm
thọ. Bằng cách chỉ ra tất cả những cảm thọ khả dĩ chúng ta có thể dễ dàng hiểu
được rằng thọ xả là cảm thọ phi khổ, phi lạc và phi hỷ phi ưu.
Ngoài
ra, chúng ta nên hiểu rằng những cảm thọ này đã được nêu lên để chỉ ra nguyên
nhân tâm giải thoát nơi đệ tứ thiền, vốn là thọ xả. Những Bậc Thiền Jhāna trước
đó vốn đã đoạn trừ được lạc và khổ đều thực sự là những nguyên nhân đối với tâm
giải thoát này. Như trong câu nói: ‘Thưa ngài, cả bốn Bậc Thiền Jhāna đều là
những nguyên nhân để đạt được tâm giải thoát, vốn chỉ là những thọ xả. Thưa
ngài, trong trường hợp này, từ khi đoạn trừ lạc ..., chư vị Tỳ-khưu có thể
chứng và trú trong đệ tứ thiền. Thưa ngài, đây là bốn nguyên nhân để đạt được
tâm giải thoát, vốn đã là một thọ xả[61].’
Mặc dù những
cảm thọ này đã bị đoạn trừ ở nơi nào đó, người ta cho rằng những sai lầm của cá
nhân v.v... cần phải đoạn trừ... nơi Thánh Ðạo Thứ Ba với quan điểm là để tán
dương ca tụng thánh đạo này, làm thế nào đó nhằm mục đích khen ngợi đệ tứ
Thiền, chúng ta nên hiểu rằng những cảm thọ này được đề cập đến trong mối tương
quan với Thiền này.. Hoặc chúng ta nên hiểu rằng những cảm thọ này được đề cập
đến để chỉ ra ở đây có sự cách biệt rất lớn giữa tham dục và lòng hận thù, do
việc hủy hoại những nguyên nhân gây ra. Ðối với những nguyên nhân này, lạc
chính là nguyên nhân tạo ra hỷ, hỷ là nguyên nhân tạo ra tham dục, khổ là
nguyên nhân tạo ra ưu và ưu lại là nguyên nhân tạo ra lòng hận thù. Và nhờ tiêu
diệt được lạc v.v..., tham dục và lòng hận thù cũng bị tiêu diệt cùng với những
nguyên nhân của chúng. Như vậy, chúng sẽ lìa xa[62]
chúng ta vậy.
Mệnh đề
‘không còn khổ cũng như không còn lạc’ có nghĩa là không đau đớn do chẳng còn
nỗi đau đớn nào nữa; cũng như không sảng khoái sung sướng do không có chẳng còn
nỗi sảng khoái sung sướng nào hết. Nhờ vậy, Ðức Phật đã chỉ ra (loại) cảm thọ
thứ ba tương phản với đau đớn và thích thú. Cảm thọ thứ ba không đau đớn cũng
không thích thú, và không chỉ vì không có đau đớn và không có thú vị. Cảm thọ
thứ ba này là loại cảm thọ phi khổ phi lạc, và cũng được gọi là thọ xả. [178]
Cảm thọ này có trạng thái là thưởng thức một đối tượng theo cách trung bình,
giữa ao ước và không ao ước, có phận sự là tính phi lạc phi khổ, nó thành tựu
caùch thế không rõ rệt, nguyên nhân gần là diệt trừ lạc.
Tiếp
theo, cũng tương tự như vậy đối với mệnh đề: - ‘tính thanh tịnh Chánh Niệm xuất
phát từ xả’ mà ra được thể hiện trong Bậc Thiền Jhāna này, bởi vì nó có được
nét trong sáng Chánh Niệm, nên chánh niệm đó hoàn toàn trong sáng. Sự trong
sáng như vậy là do xả mà ra. không phải do bất kỳ yếu tố nào khác; do đó, Thiền
Ðịnh (Jhāna) này được gọi là ‘Chánh niệm trong sáng xuất phát từ đặc tính xả mà
ra.
Trong Bộ
Phân Tích (Vibhanga), người ta nói rằng Chánh Niệm được Thanh tịnh[63], làm cho thanh tịnh và đánh bóng nhờ xả; do đó,
‘Chánh Niệm trong sáng xuất phát từ đặc tính xả mà ra. Ở đây, xả nhờ đó, có
chánh niệm trong sáng, nên được hiểu như là hành xả. Và xả này không chỉ thanh
lọc được Chánh niệm, mà còn thanh lọc được cả các pháp tương ưng nữa. Tuy nhiên,
theo cách pháp, thì Chánh Niệm đã được đặt lên hàng đầu.
Mặc dù
xả cũng hiện hữu trong cả ba bậc Thiền đầu tiên, tuy nhiên, giống như mặt trăng
lưỡi liềm, khi bị mặt trời áp đảo vào ban ngày, và không có ban đêm làm cho nó
mát mẻ và tạo thuận lợi, nên mặt trăng (lưỡi liềm) không tỏa sáng được, không
lấp lánh được, mặc dù ban ngày nó vẫn hiện hữu. Cũng vậy, đối với trăng lưỡi
liềm coi như là hành xả, và ban đêm đã bị đối nghịch nhau với các pháp, như
cách tầm, lại không có ban đêm thuận lợi là thọ xả, nên xả đã không tỏ rõ trong
ba bậc Thiền Ðịnh (Jhāna) đầu tiên, mặc dù nó vẫn tồn tại trong đó. Và một khi
xả không rõ rệt, thì các pháp câu sanh lại như Chánh Niệm sẽ trở nên không rõ
rệt, giống như ánh sáng của mặt trăng lưỡi liềm cũng không rõ ràng vào ban
ngày. Do đó, không phải chỉ có trong một, mà trong cả ba bậc thiền Jhāna, đều
được cho là ‘Chánh Niệm trong sáng xuất phát từ xả mà ra’. Nhưng đặc biệt trong
đệ tứ Thiền, mặt trăng lưỡi liềm được coi như là hành xả, đã không bị áp đảo
vào ban đêm do sức mạnh của các pháp đối nghịch, như việc tầm, và có được ban
đêm thuận lợi là cảm thọ xả, nên xả cực kỳ rõ rệt. Nhờ tính rõ ràng đó, nên các
pháp câu sanh, như chánh niệm, tựa như ánh sáng mặt trăng hình lưỡi liềm tỏa
saùng, đã lan toả ánh sáng lấp lánh. Do đó, đệ tứ Thiền được cho là ‘Chánh Niệm
trong sáng xuất phát từ xả mà ra.’
‘Bậc
Bốn’ là tính liên tục mang tính số học; chúng ta nhập đệ tứ Thiền này.
Trong
câu ‘có xúc’ v.v.... trong năm loại xúc, chúng ta nên hiểu về cảm thọ xả như là
‘thọ’ duy nhất.
Ngoài
ra, trong năm bậc thiền Jhāna, trong tám quyền, [179) lại có câu nói rằng: ‘Có
xả; xả quyền. Những từ còn lại, không thấy xuất hiện nơi đệ tam Thiền, thì cũng
không có cả trong đệ tứ Thiền nữa.
Trong
phần nói về các Nhóm, chúng ta cũng nên hiểu rằng có hai loại Thiền Ðịnh
(Jhāna), do đặc tính xả và nhất tâm tạo ra. Tất cả những từ còn lại nên hiểu có
ý nghĩa tương tự như trong đệ tam Thiền
Kết
thúc diễn giải Hệ Thống Bốn bậc Thiền (Jhāna).