200. HỎI: Về công án “Động Sơn qua cầu, Huyền Sa qua núi” như thế nào?
- Ø ĐÁP: Công án và sự tích của Tổ sư rất nhiều, một ngàn bảy trăm Tổ, sau này đến bảy ngàn công án. Nói tóm lại, Huyền Sa qua núi, đá nhằm cục đá liền ngộ; Động Sơn qua cầu, thấy bóng trong nước cũng ngộ … Bóng nước, cục đá v.v… chỉ là trợ duyên cho sự ngộ, chứ cái ngộ chẳng phải do những thứ đó. Cái chính là do công phu của mình đã tới mức rồi, gặp gì cũng có thể làm trợ duyên khiến ngộ. Nên công án chỉ là trợ duyên, nếu giải thích công án chỉ làm chướng ngại cho sự tham Thiền chứ chẳng có ích lợi gì. Như những sách thiền thời nay, đem công án ra giải thích, là nghịch với ý Tổ, làm chướng ngại người tham thiền. Ý của Tổ là muốn chúng ta nghi, hễ giải thích ra thì hết nghi, hết nghi là hết ngộ, Thiền tông gọi là “Lắp bít cửa ngộ của người tham thiền”.
201. HỎI: Tham câu thoại đầu đề lên câu hỏi, khoảng cách giữa câu hỏi lần thứ nhất với lần thứ nhì có sự kéo dài, vậy đúng không?
- Ø ĐÁP: Câu thoại đầu là câu hỏi, có hỏi thì có đáp, hỏi thầm trong bụng “Khi chưa có trời đất ta là cái gì?” không hiểu, đáp không ra, phải hỏi liền, vẫn đáp không ra, hỏi tiếp … trong đó không có kẽ hở, không có gián đoạn. Nếu có kẽ hở, cũng như Lai Quả Thiền sư nói: “Thai trâu bụng ngựa cũng ở trong kẽ hở đó nổi lên”. Có kẽ hở thì Diêm La Vương thấy được, có thể sai quỷ sứ đến bắt, còn không có kẽ hở thì vô tướng, hễ vô tướng thì Diêm La Vương chẳng thể thấy.
202. HỎI: Con học Phật cứ quên hoài, vậy có phải là cái nghiệp không?
- Ø ĐÁP: Không phải là nghiệp. Nếu cô vì muốn giải quyết vấn đề sanh tử mà xuất gia, thì nay tham thiền là đi đúng con đường giải thoát, nên mới được quên, quên là đúng với đường lối giải thoát, quên thì chẳng bị dính mắc, còn ghi nhớ là dính mắc.
Trong bài Pháp môn An Tâm của Tổ Đạt Ma có nói: “Phân biệt ghi nhớ là việc bên chảo dầu sôi lò lửa than, không phân biệt ghi nhớ là sự Niết-bàn giải thoát”. Hiện nay chùa nào cũng thờ Tổ Đạt Ma, tại sao thờ Tổ Đạt Ma? Vì Tổ dạy cho người tu giải thoát. Nay nhiều người lấy dòng Lâm Tế, tự nhận là con cháu của Tổ Đạt Ma, nhưng lại trái ngược với Tổ. Trái ngược với Tổ Đạt Ma tức trái ngược với Phật Thích Ca, thế thì xuất gia làm chi?! Chẳng thà ở ngoài đời, học theo pháp thế gian, được hưởng thụ như người đời, đâu cần cực khổ bỏ cha mẹ, anh em gia đình mà không được giải thoát, lại mắc thêm tội của bên chảo dầu sôi lò lửa than, sau này chịu những khổ báo!
r Sư phụ giảng về đại ý PHỔ MÔN
(Kinh Diệu Pháp Liên Hoa )
Tạo sao gọi là PHỔ MÔN? vì tự tánh của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn. Kinh này do Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch vào đời Diêu Tần. Sao gọi Tam Tạng? Tam Tạng gồm Kinh, Luật, Luận, nếu thông suốt Kinh điển gọi là Kinh sư, thông suốt giới Luật gọi là Luật sư, thông suốt Luận gọi là Luận sư. Ngài Cưu Ma La Thập thông suốt cả Kinh, Luật, Luận, nên gọi Tam Tạng Pháp sư. Pháp sư chuyên về dịch Kinh, sự dịch Kinh rất đúng với ý Phật, được nhà Vua đương thời kính trọng. Sư đã nói trước rằng: “Nếu tôi dịch Kinh sai ý Phật thì hãy đem lưỡi tôi cắt đi; còn nếu tôi dịch đúng ý Phật, sau khi tôi mất, tất cả đều có thể hoại, ngoại trừ cái lưỡi”. Sau khi Sư tịch, đem đi trà tỳ, tất cả đều thiêu rụi, chỉ còn lại cái lưỡi. Chứng tỏ các Kinh do Ngài dịch không sai.
Chánh văn:
Lúc Phật đang thuyết pháp, Vô Tận Ý Bồ-tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch tay áo bên phải, quỳ gối chân phải, bạch Phật rằng:
- Thế tôn, do nhân duyên gì mà Quán Thế Âm Bồ-tát được gọi là Quán Thế Âm?
Phật bảo: “Nếu có vô lượng vô biên chúng sanh, đã chịu tất cả khổ, nghe được Quán Thế Âm Bồ-tát, nhất tâm xưng danh, thì Quán thế Âm Bồ-tát sẽ quán được âm thanh khiến giải thoát”.
Theo thế gian thì âm thanh phải dùng tai nghe, chẳng thể dùng mắt thấy, nhưng người kiến tánh triệt để rồi lục căn hổ dụng, tức dùng mắt nghe được, dùng lỗ tai xem thấy. Chữ QUÁN là dùng con mắt để nghe âm thanh, ấy là sự dụng của tự tánh, nên ba chữ QUÁN THẾ ÂM là chỉ về tự tánh của mình, chứ chẳng phải thật có một vị Bồ-tát tên Quán Thế Âm.
Quán Thế Âm Bồ-tát, nghe được xưng danh đến cứu giúp: chẳng những thế giới này, kể cả hằng hà sa số vô lượng vô biến vi trần thế giới, hễ chúng sanh nào cầu cứu cũng sẽ được cứu. Ví như đài phát thanh hiện nay có làn sóng mạnh, dù máy radio nhỏ, nếu bắt đúng theo làn sóng cũng có thể thâu được. Sức dụng Tự tánh của mình cũng vậy, khắp hư không pháp giới, nếu sự tu của chúng ta quét trống rỗng tất cả, ngũ uẩn giai không, đến cái Không tướng hiện ra, tự tánh tự hiện, tức tự tánh mình cứu mình, chứ chẳng phải Quán Thế Âm Bồ-tát hay một người nào đó.
Phải biết Quán Thế Âm Bồ-tát là dùng con mắt để nghe chứ không phải dùng lỗ tai, nếu chúng ta dùng con mắt nghe được mới là Quán Thế Âm, đạt đến cảnh giới này tất cả khổ đều được giải thoát.
Ở trên đã nói, ba chữ Quán Thế Âm là tự tánh của mình, mọi người đều sẵn đủ, sức dụng thần thông biến hóa chẳng kém hơn Phật, nên gọi Phật tánh, Sở dĩ Phật phát huy ra hết mà chúng ta chỉ có thể phát huy được một ít, chưa bằng một phần triệu, do phát huy chậm nên gọi là nghiệp lực; nếu được phát huy hết, gọi là thần thông lực.
Sự biến hóa hiện nay của chúng ta chậm đến chính mình cũng chẳng thể biết được; ví như tóc, móng tay, tế bào… mỗi giây phút biến đổi, thân thể mỗi giây phút biến đổi, ngày đêm chẳng ngừng, nhưng tự mình chẳng hay. Hễ biến đổi một chặng thì nhân quả bằng tam thế: Kiếp trước tạo kiếp này, kiếp này tạo kiếp sau, Vì nhất thiết duy tâm tạo, do tâm lực tạo ra nghiệp lực.
Ví dụ tâm lực đến tột đỉnh là một triệu độ, nay tâm lực chúng ta chỉ có một độ, tham Thiền mãi tăng lên mười độ, rồi trăm độ, ngàn độ…. Hễ tâm lực tăng đến năm trăm ngàn độ (phân nữa tâm lực), lúc ấy có thể biến cái này cái kia, ấy gọi Thần thông lực. Nên Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm như họa sĩ tài ba, khéo họa đủ thứ thế giới, họa ra thiên đàng, địa ngục”.
Ở trong này nói đến “Trì danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ-tát”; chữ TRÌ này nhiều người lầm tưởng cho tụng là trì, mỗi ngày tụng Kinh Phổ Môn nói là trì Kinh Phổ Môn, mà chẳng biết trì là phải hành trì. Ví như hàng Tăng ni chúng ta phải trì giới, mỗi nửa tháng bố tát (tức tụng giới) một lần, nếu cho tụng giới tức trì giới là không đúng, phải theo giới thực hành mới gọi là trì. Trì Kinh cũng vậy.
Hễ hành trì đúng pháp thì đạt đến sự dụng như Quán Thế Âm Bồ-tát. Sức dụng của tự tánh automatic, không qua tác ý, đã đạt đến cảnh giới này thì vào lửa chẳng cháy, xuống nước chẳng chìm, muốn gì được nấy, bởi do nhất tâm mà thần lực được hiện ra, tất cả tai nạn đều được giải thoát. Do nhân duyên này nên gọi là Quán Thế Âm.
Nếu thực hành đúng pháp môn, khi tự tánh hiện ra sức dụng thì bị dao chém đầu mà đầu chẳng bị đứt, dao lại gãy từng khúc; (Trước kia khi đọc đến đây, do chưa hiểu nghĩa này, cho rằng ấy là gạt trẻ con, nhưng nay thì tin được. Việc này giải thích ra thì vô lý, nhưng sự thật như thế.) Những ma quỷ, la sát muốn ăn thịt người, hút tinh khí người, đều chẳng thể hại, Chẳng những không thể hại được, kể cả con mắt chẳng thể ngó thấy. Trong Thiền tông có một sự tích như sau:
Một vị Tổ sư đã kiến tánh, làm Trụ Trì ở chùa hơn ba mươi năm mà Già Lam Bồ-tát không thể thấy mặt vị Trụ trì ấy, vì Sư luôn có một hào quang bao phủ. Một ngày kia, Bồ-tát hỏi vị Chủ sự trong chùa:
- Tôi muốn chiêm ngưỡng chân dung của Sư Trụ trì, ông có cách nào không?
ĐÁP: “Dễ thôi, ngày mai, lúc ăn quả đường, ông làm đổ thùng cơm thì thấy được”.
Già Lam Bồ-tát làm theo lời của vị Chủ sự, Hòa Thượng Trụ trì thấy vậy liền mắng:
“Cơm của thí chủ cúng dường, sao bất cẩn như thế!”. Ngay lúc la mắng, hào quang bị giảm xuống, Già Lam Bồ-tát mới có dịp đảnh lễ, nhưng sau đó hào quang của Sư lại phủ kín, chẳng thể thấy được nữa.
Mỗi người chúng ta đều có hào quang, chỉ cần tâm lực mạnh. Nên khi sức dụng của tự tánh hiện ra, Bồ-tát còn chẳng thể thấy được, nói chi quỷ thần ư!
Chánh văn:
Bất kể người có tội, bị gông cùm xiềng xích, tất cả khủng bố, tai ương, do nhất tâm xưng danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ-tát, đều được tan rã, được giải thoát.
Muốn đạt đến nhất tâm thì bình thường phải tu tập, lúc niệm phải nhất tâm, chẳng có một tạp niệm nào. Ví như tham Thiền, chỉ có một câu thoại đầu, không có biệt niệm, thì dụng của Tự tánh được hiển hiện.
- Vô Tận Ý Bồ-tát, nếu chúng sanh ham dâm dục sẽ được hết dâm dục; ham sân giận cũng sẽ được hết, kẻ ngu si được trí huệ.
Nay đã có sự thật chứng tỏ, nhiều Phật tử sau một thời gian tham Thiền, đối với những ham thích trước kia như ăn mặc đẹp, đi chơi, ca hát v.v… đều tự nhiên bỏ. Tự tánh của mọi chúng sanh sẵn đủ tất cả, chẳng kém hơn Phật, do bị tham, sân, si che lấp nên chẳng thể phát huy, như bụi che lấp ánh sáng của chiếc gương, nếu quét sạch bụi bậm thì ánh sáng của gương được hiện ra, quét trống bao nhiêu hiện ra sự dụng bấy nhiêu, tức dụng tức không, tức không tức dụng, không tới cực, dụng tới cực, hoạt bát vạn năng, vô lượng vô biên. Ánh sáng gương vốn sẵn đủ, chẳng phải do chùi mới thành gương. Tự tánh của chúng ta vốn sẵn thần thông biến hóa như Phật, chẳng phải do tu mới thành.
Dụng của Tự tánh có đại uy thần lực như thế, nên mới có thể lợi ích cho tất cả chúng sanh, và tất cả chúng sanh đều phải hướng vào tự tánh mà ngộ, phải quét sạch tất cả chấp tâm của mình. Lúc tự tánh hiện ra, chẳng cần dụng cũng được, vì đã tự do tự tại rồi! Nên muốn cầu nam được nam, cầu nữ được nữ, muốn gì được nấy, hễ còn một chút khổ là chẳng tự do tự tại vậy.
Phật bảo: Nếu có người thọ trì 62 ức hằng hà sa số Bồ-tát, công đức của người ấy, với phước đức của người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát bằng nhau không khác.
Tại sao nói số 62 mà chẳng phải 61 hay 60? Vì kiến chấp của chúng sanh có 62 thứ: Ấy là: Tứ cú x ngũ uẩn = 20. 20 x tam thế = 60. 60 + Hữu & vô = 62. Tất cả kiến chấp đều không ngoài 62 thứ này, nên lấy ước số 62 để đối trị 62 kiến chấp, chỉ cần một Quán Thế Âm là đủ rồi. Như trên đã nói, Tự tánh vốn đầy đủ tất cả, cùng hư không, khắp pháp giới, tất cả đều chẳng ở ngoài tự tánh. Nói “Tâm bao gồm hư không pháp giới” vẫn chưa đúng, vì cho tâm là tâm, hư không pháp giới là hư không pháp giới, là nhị; tự tánh bất nhị, hư không pháp giới tức tâm, tâm tức hư không pháp giới; tự tánh tức tâm, tâm tức tự tánh, chẳng hai chẳng khác. 62 ức, nói ra rất nhiều, nhưng gom lại chỉ là bất nhị, chỉ là tự tánh Quán Thế Âm mà thôi, cho nên công đức với phước đức bằng nhau.
Công đức và phước đức của thế gian dù có số lượng nhiều, nhưng lâu ngày cũng hết, còn công đức của tự tánh thì chẳng thể hết, vì bất sanh bất diệt, bất tăng bất giảm. Cho nên, chư Phật chư Tổ chỉ muốn chúng ta được ngộ, khi ngộ rồi sức dụng của tự tánh phát huy, nên phải thọ trì. Thọ trì là muốn quét cho sạch, nay quét chưa sạch thì năng lực ấy chỉ có thể gọi là tiềm năng, tức tiềm ẩn nơi tự tánh.
- Nói 32 ứng thân của Quán Thế Âm Bồ-tát độ chúng sanh; chúng sanh nào cần Phật thân để độ thì hiện Phật thân, cần thân Bồ-tát để độ hiện thân Bồ-tát v.v… nói tóm lại chỉ là tùy theo căn cơ của mỗi chúng sanh mà độ như ngài Lục Tổ nói: “Tự tánh tự độ”, Quán Thế Âm Bồ-tát tự tánh tự độ, chúng sanh cũng tự tánh tự độ; tự tánh tự độ tức Quán Thế Âm Bồ-tát, chứ chẳng phải là người khác độ. Nếu người khác độ được thì Đức Phật đại từ đại bi, đã độ hết chúng sanh rồi, đâu cần cực khổ mà tu !
Lúc bấy giờ, Vô Tận Ý Bồ-tát muốn cúng dường Quán Thế Âm Bồ-tát bằng sâu chuỗi Anh Lạc quý báu, lúc đầu Quán Thế Âm Bồ-tát không chịu nhận, và Vô Tận Ý Bồ-tát nói rằng:
- Hãy thương xót chúng tôi mà nhận lấy sâu chuổi.
Khi ấy Đức Phật cũng nói với Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: “Hãy thương xót Vô Tận Ý Bồ-tát và tứ chúng cùng các cõi Trời, người, A-tu-la v.v… mà nhận lấy” Vì thế, Quán Thế Âm Bồ-tát đã nhận và chia sâu chuổi thành hai phần, một phần cúng dường Phật Thích Ca, một phần kia cúng dường Tháp Phật Đa Bảo.
Đây là hình dung cho Pháp Thí, nếu như chẳng nghe được pháp bố thí thì chẳng biết tu hành, chẳng thể lìa khổ, Vô Tận Ý Bồ-tát vì muốn chúng sanh cung kính Tam Bảo, vì ngài là đại diện đương cơ, thay mặt cho tất cả người nghe pháp, gồm tứ chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nam nữ cư sĩ và thiên long bát bộ, cúng dường cho Quán Thế Âm Bồ-tát.
Tự tánh thần lực của Quán Thế Âm Bồ-tát khắp thế giới Ta bà và vô lượng vô biên thế giới. Khi ấy, Vô Tận Ý Bồ-tát hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn, Phật tử do nhân duyên gì, hiệu Quán Thế Âm?
Phật bảo: Đức hạnh của Quán Thế Âm Bồ-tát khắp mười phương thế giới, tất cả Phật, Bồ-tát đều có đại nguyện sâu như biển cả, chẳng bị thời gian, số lượng hạn chế, chẳng thể dùng trí suy lường. Nay ta nói qua cho biết: Do nghe danh hiệu chẳng bỏ qua cái thân, tâm chẳng bỏ luống qua, đến khi tự tánh được hiện ra thì tất cả khổ đều diệt.
Ở đây nói “Nghe danh hiệu thấy cái thân, tâm chẳng bỏ luống qua”, cũng như Kinh Lăng Nghiêm nói đến “NGHE” là phản văn tự tánh, chứ chẳng phải thật nghe cái danh hoặc thật thấy cái thân, Tự tánh chẳng có hình tướng, như Kinh Kim Cang nói: “Không có thân mới là đại thân”, nếu có hình tướng thì chẳng phải đại thân. Ví như hiện nay chúng ta tham thiền, nếu chẳng có vọng tưởng cũng chẳng có nghi tình là lọt vào vô ký không, tức là bỏ luống qua, đối với sự tu hành vô ích.
- Giả sử có người muốn hại mình, xô vào hang lửa, do sức dụng tự tánh sẽ hóa hầm lửa thành nước cam lồ, tất cả tai ương, ác thú, binh lửa v.v… đều do sức dụng tự tánh mà được hóa giải, tất cả khổ sanh lão bệnh tử, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh … đều được tiêu tan.
- Đạt đến cảnh giới đó gọi là Chơn quán, không còn dính líu gì cả, không có vọng tưởng, tất cả đều trong sạch, luôn cả trong sạch cũng không, gọi là Thanh Tịnh Quán. Lúc đó, trí huệ ấy là Bát-nhã, chẳng như trí huệ thế gian, chẳng bị hạn chế bởi số lượng, gọi là Quảng đại Trí Huệ Quán. Quán cái khổ của chúng sanh và đem lại sự vui mà tự tánh của mình tự nhiên đạt đến vô-duyên-từ và đồng thể bi, tức chẳng có cái TA để độ chúng sanh, chẳng có chúng sanh thọ nhận sự giúp đỡ của ta, ta và chúng sanh đồng một thể, gọi là Bi Quán và Từ Quán.
Năm thứ quán: Chơn quán, thanh tịnh quán, quảng đại trí huệ quán, bi quán và từ quán, đều là sức dụng của tự tánh. Người thời nay thường nói “Từ bi bác ái”, tưởng Từ bi và bác ái giống nhau, kỳ thật là khác nhau như trời với đất; BÁC ÁI là chấp ngã, có cái TA để ban bố cho đại chúng, còn TỪ BI là chẳng có ngã, chẳng có tự và tha: Chẳng có ta cho đại chúng và đại chúng thọ nhận sự Từ bi của ta.
- Bây giờ, chúng ta chưa đạt đến chỗ này, phải thường nguyện thường chiêm ngưỡng, ngày đêm tu hành chẳng gián đoạn, khi cấu bẩn của tập khí quét sạch, ánh sáng trong sạch của Tự tánh hiện ra, như mặt trời khiến tan rã mây đen, tất cả tai ương, gió lửa bão táp đều tiêu, thế gian được sáng tỏ, mọi chúng sanh đều được thọ nhận mưa cam lồ, những phiền não trước kia được dập tắt. Ấy là do Diệu âm Quán Thế Âm, Phạn âm hải triều âm, cho nên phải thường quán.
Phạn là thanh tịnh, còn hải triều âm là ngày đêm chẳng gián đoạn. Tự tánh của mình cũng thế, mặc dù hiện nay là chúng sanh, nhưng tự tánh từ xưa nay vốn như thế, chưa từng gián đoạn, dù đầu thai thành con trâu con chó vẫn không gián đoạn, nên phải quán Tự tánh của minh. Nay chúng ta tham thiền là trở về tự tánh của mình vậy.
Trì Địa Bồ-tát ở trong chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật rằng:
- Thế Tôn, nếu chúng sanh nghe Phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát, tự tại thần thông lực của Tự tánh tự hiện khắp nơi mà công đức chẳng thiếu xót”.
Lúc Phật thuyết xong Phẩm Phổ Môn, trong chúng có tám mươi bốn ngàn chúng sanh được phát tâm Bồ-đề.
Tâm bồ đề tức tâm giác ngộ, tâm giác ngộ tức tâm vô sở đắc, tâm vô sở đắc mới đến giác ngộ cao nhất, nếu còn sở đắc tức còn chấp ngã, chẳng phải tâm Bồ-đề, sẽ không đạt đến giác ngộ cao nhất.
203. HỎI: Về Vấn đề Vật Bất Thiên trong Triệu Luận, nay tham Thiền dùng câu thoại đầu có thể biết được vật bất thiên không?
- Ø ĐÁP: Nếu dùng trí suy lường là lưu động rồi, phải tự ngộ mới được, muốn ngộ phải tham câu thoại đầu, ngộ rồi mới chứng được vật bất thiên. Trước mắt thấy bất cứ cái gì đều là lưu động, hễ dùng vọng tâm hiểu biết thì tất cả đều có sự thay đổi, lưu động, nên ngài Hám Sơn sau khi ngộ rồi mới chứng tỏ là Vật bất thiên: Sau khi ngộ rồi lễ Phật không có tướng lạy xuống và đứng lên; mở cửa nhìn ra ngoài thấy lá cây bay lả tả mà lá nào cũng chẳng động; đi vào nhà cầu tiểu tiện chẳng thấy tướng chảy của nước tiểu, nên có câu “Gió bảo bay núi mà chẳng động, nước sông đổ gấp mà chẳng trôi”, trước kia nghi câu “Thế gian tướng thường trụ” trong Kinh Pháp Hoa đến đây ngộ được và tan rã, bởi vậy bất thiên là thường trụ. Cũng như tôi đã giải hai câu: “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ”, ngài Tăng Triệu giải câu: “Mặt trẻ trụ khi xưa, mặt già trụ nơi nay”, tức các tánh trụ nơi một thời, xưa trụ nơi xưa, nay trụ nơi nay.
Nói xưa với nay là để cho mọi người dễ hiểu, chẳng những xưa nay, giây phút thứ nhất trụ nơi giây phút thứ nhất, giây thứ nhì trụ nơi giây thứ nhì, cho nên Khổng Tử bắt tay với Nhan Hồi, vừa bắt tay là sự bắt tay đã mất. Giây phút thứ nhì của cơ thể đã khác với giây phút thứ nhất, tế bào đã biến đổi rồi.
Pháp tánh vốn chẳng sanh diệt, thấy pháp tánh sanh diệt là do vọng tâm hoạt động, bây giờ nói do vọng tâm suy lường, ví như nói hoa đốm trên không, đứa trẻ sanh ra nói là hiện hoa đốm trên không, đứa trẻ chết nói là hoa đốm diệt, sự thật thì đâu có hoa đốm trên không mà nói sanh với diệt! Cho nên, Phật nói trong Kinh Lăng Nghiêm “Nay thấy tất cả núi sông đất đai, Phật và chúng sanh v.v… đều do kiến bệnh từ vô thỉ”, Kinh Pháp Hoa nói: “Chư pháp tùng bản lai, thường tự tịch diệt tướng”, tất cả các pháp vốn là tịch diệt, tịch diệt là bất thiên.
Nghĩa của Bất Thiên là ở trong sanh diệt lưu động thấy được bất thiên, chứ chẳng phải ở trong tịnh, nên việc này phải chứng ngộ mới được.
* Sư bà Pháp Thành: Nay con đã phát tâm tham Tổ Sư Thiền, nguyện sau này có vãng sanh cũng tiếp tục tu theo pháp môn này chẳng bỏ.
- ĐÁP: Pháp môn tham Tổ Sư Thiền này, như ở trên đã nói, tất cả các pháp vốn là tịch diệt bất động; nếu bất động thì làm sao có vãng sanh và không vãng sanh? Bây giờ thực hành theo đường lối tham thiền chỉ là đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình hỏi tới mãi, ngoài ra đừng có nhớ đừng có biết là được rồi. Còn phát nguyện là tốt, nhưng đã bắt đầu tham thoại đầu rồi thì tất cả đều không biết không nhớ, cũng chẳng cần biết đến sau này có bỏ hay không bỏ, vì đã tiếp tục là không bỏ rồi, cần gì nguyện bỏ hay không bỏ!
Chư Phật lúc chưa thành Phật thì vị nào cũng có nguyện, nhưng sau này nếu không xả bỏ cái nguyện thì chẳng thể thành Phật được. Bổn tánh của mình vốn vô sở trụ, cho nên, đến cửa giải thoát rồi là vô tướng vô nguyện, tức nghĩa vô sở trụ, chẳng trụ ở bất cứ chỗ nào, nếu cứ ôm cái nguyện tức có sở trụ.
204 HỎI: Con thì theo pháp môn tham Thiền, đến khi lâm chung, nếu những người xung quanh niệm Phật phải làm
sao?
- Ø ĐÁP: Trước tiên phải có lời dặn: “Đã đi theo pháp môn này rồi khỏi cần niệm Phật, tức dù có lòng tốt muốn trợ niệm, nhưng sẽ làm hỗn loạn pháp môn của tôi, vô ích”. Nếu người ta không nghe theo, thì mặc cho ai niệm Phật, mình cứ tham câu thoại đầu của mình, không biết tới.
Chớ có nói là lâm chung, trước mắt cũng vậy, vạn pháp tự nó lăng xăng, đâu dính dáng với ta! Ai muốn làm gì thì làm, không biết tới. Chẳng những việc ở bên ngoài không biết tới, ở trong tâm mình, vọng tưởng nổi lên ào ào cũng không biết tới, không có vọng tưởng, được thanh thanh tịnh tịnh, cũng không biết tới, câu thoại đầu được miên mật cũng không biết tới, chứ đừng nói là ngoại cảnh.
Nếu Sư Bà đã quyết tử tham Thiền thì khỏi cần lo việc lâm chung nữa, trước mắt nếu làm chủ được thì lâm chung làm chủ được, đến bệnh hoạn vẫn làm chủ được, chiêm bao cũng làm chủ được thì lâm chung tự nhiên làm chủ được. Nên biết, tự tánh vốn chẳng có việc lâm chung, sanh tử vốn chẳng thật, nếu cứ lo cho việc lâm chung, sẽ rất chướng ngại cho sự tham thiền của mình. Cần phải bây giờ làm chủ được, tham câu thoại đầu không bị tất cả ngoại cảnh ảnh hưởng, bất kể người ta đến nói gì; chê cười, phỉ báng, chửi mắng… đều không biết tới.
205. HỎI: Trang 12 của phần “Vật Bất Thiên” trong Triệu Luận có nói “Bất sanh bất diệt là thường”, nhưng trong Kinh Duy Ma Cật lại nói “Bất sanh bất diệt nghĩa là vô thường”, vậy là như thế nào?
- Ø ĐÁP: Tất cả những gì chúng ta thấy được hiện nay đều là sanh diệt, chính cái tâm niệm vừa sanh vừa diệt. Còn tự tánh vốn bất sanh bất diệt, tức ở trong sanh diệt thấy được bất sanh bất diệt, mới là bản tánh của mình.
Nghĩa của tự tánh là vô sở trụ, đối với thường mà nói vô thường, để phá sự chấp của chúng sanh; thường và vô thường là đối đãi, nếu không có chấp thì đâu có thường và vô thường, sanh diệt và bất sanh bất diệt? như Triệu Luận nói “Không phải do lời nói khác biệt mà chơn tâm của Bậc Thánh cũng khác biệt theo”. Nói khác biệt do muốn giải tỏa bệnh chấp của chúng sanh, lời nói chỉ là phương tiện tạm thời dùng để phá chấp, chứ chẳng phải lời nói là chơn lý.
Cho nên, 36 pháp đối của Lục Tổ trong Kinh Pháp Bảo Đàn, hễ người chấp sáng thì nói tối, chấp tối thì nói sáng, chấp thường thì nói vô thường, chấp vô thường thì nói thường v.v… chỉ là để phá chấp mà thôi. Do đó, chớ có chấp vào lời nói mà đánh mất ý nghĩa, phải được ý quên lời. Lời nói của chư Phật chư Tổ thường đối chọi với nhau, kỳ thật là vô sở trụ, là bất nhị.
* Có một ngoại đạo hỏi Phật:
- Hôm qua thuyết pháp gì?
ĐÁP: Pháp định.
- Hôm nay thuyết pháp gì?
- Pháp chẳng định.
- Sao hôm qua định, hôm nay chẳng định?
- Đúng vậy, hôm qua định, hôm nay chẳng định.
Đó chính là nghĩa Vô sở trụ vậy.
¤ Ví như Tăng hỏi Triệu Châu: Con chó có Phật tánh không?
ĐÁP: Có.
Tăng khác hỏi: Con chó có Phật tánh không?
ĐÁP: Không.
Lời nói đối chọi nhau, cũng là thể hiện nghĩa vô sở trụ, tức không cho mình trụ ở một pháp nào. Nên Triệu Luận nói: “Lời của chư Phật chỉ là để giáo hóa chúng sanh, mặc dù nói ra muôn ngàn sai biệt, nhưng ý chỉ là một, là muốn giải tỏa bệnh chấp của chúng sanh”. Còn nói “Tìm đạo ở nơi diệu ngộ”, nay chúng ta chưa được diệu ngộ, tập khí ham tìm hiểu giáo lý, tăng thêm tri giải, cho nên Kinh Đại thừa liễu nghĩa là để phá tri giải của mình, chấm dứt tâm tìm hiểu, mới chuyên tâm tham cứu câu thoại đầu để được ngộ. Nếu còn muốn hiểu thấu giáo lý, cũng như nhìn vào ngón tay, không chịu nhìn theo ngón tay chỉ, là nghịch với ý của chư Phật chư Tổ.
Hai chữ “Giáo lý” chỉ để phá chấp mà thôi, chẳng phải có cái giáo lý cao siêu gọi là “Chơn lý” để cho biết, cho tăng thêm ngã chấp. Ý của Phật là muốn chúng ta kiến tánh thành Phật, nên mới có pháp môn tham thiền. Nếu hiểu theo lời nói của người khác, ấy là của người khác, chẳng phải của mình; nếu cho là phải hiểu được giáo lý của Phật rồi mới chơn tu, thì hai chữ giáo lý chính là bảo mình nhìn vào chỗ đen tối, nhìn chỗ ngón tay chỉ, và nay tham thoại đầu là nhìn vào chỗ mịt mù đen tối không biết gì cả.
Triệu Luận nói: “Như Lai vì trị bệnh chấp của chúng sanh, mới đặt ra cái này cái kia để phá chấp, gọi là giáo lý”. Nếu cứ muốn nghiên cứu giáo lý, tức muốn nghiên cứu ngón tay mà chẳng chịu nhìn chỗ ngón tay chỉ, là hiểu lầm giáo lý, nghịch với giáo lý. Nay có nhiều người hiểu lầm như thế, cho là hiểu biết giáo lý, làm thầy để dạy về giáo lý, khiến đánh mất tác dụng của giáo lý.
206. HỎI: Đã tham thiền rồi còn đi tụng giới sám hối
không?
- Ø ĐÁP: Lai Quả Thiền Sư Thiền Thất Khai Thị Lục
nói: “Nay chúng ta tham câu thoại đầu là giới, định, huệ đầy đủ”, chẳng những giới, định, huệ, tất cả pháp đều đầy đủ trong đó. Tại sao? Vì ngoài tâm đâu có Pháp! Tất cả tâm pháp và thế gian pháp đều không ở ngoài tâm, nay tham câu thoại đầu là trở về chơn tâm của mình, không chỉ là giới, cả định lẫn huệ đều đầy đủ.
Nói đến sám hối thuộc về bên giới, hễ có phạm giới thì phải phát lồ sám hối. Nay ôm câu thoại đầu khởi lên nghi tình, suốt ngày đêm đều ở trong nghi tình, đâu còn khởi tâm phạm giới? Ngày đêm khởi lên nghi tình là định, căn bản của Phật pháp là vô sở trụ, vô sở trụ tức huệ, nên giới định huệ đủ cả. Tất cả tụng Kinh, niệm Phật, hay việc thế gian công thương kỹ nghệ đều ở trong đó, chẳng có ở ngoài.
207. HỎI: Lai Quả Thiền Sư nói: “Từ Chùa Kim Sơn đến ở Chùa Cao Mân cảm thấy mới, ở Chùa Cao Mân được ba mươi năm thì Chùa Kim Sơn trở nên lạ” như thế nào?
- Ø ĐÁP: Ấy là vấn đề lạ với quen, từ lạ trở thành quen, từ quen trở thành lạ. Vọng tưởng của chúng ta đã quen thuộc từ vô thỉ đến nay, còn câu thoại đầu thì mới lạ, hôm nay cũng tham, ngày mai cũng tham, tham mãi khiến thoại đầu ngày càng quen, vọng tưởng ngày càng lạ. Hễ câu thoại đầu quen được một tháng thì vọng tưởng lạ bớt một tháng; thoại đầu quen được một năm thì vọng tưởng lạ đi một năm. Cũng như trước ở Chùa Kim Sơn ba mươi năm, nay mới về Chùa Cao Mân thì Chùa Kim Sơn là quen, Chùa Cao Mân là lạ, từ từ ở lâu rồi quen dần, ở Chùa Cao Mân được một năm thì Chùa Kim Sơn lạ đi một năm, đến khi ở được Cao Mân ba mươi năm thì Chùa Kim Sơn trở nên hoàn toàn lạ. Tham Câu thoại đầu cũng vậy, hễ thoại đầu trở nên quen thuộc thì vọng tưởng sẽ thành lạ, và tham mãi vọng tưởng nổi lên chẳng được nữa.
208. HỎI: Thế nào là Mật tông?
- Ø ĐÁP: Mật tông là tam nghiệp gia trì: Tâm quán tưởng, thân kiết ấn, miệng trì chú. Ba thứ đồng thời ấy phải có Thượng sư đích thân truyền dạy mới được. Nay có người cho niệm chú là Mật tông, ấy là sai lầm. Mật tông cũng phải phá ngã chấp, Tịnh độ cũng phải phá ngã chấp, mới hợp với nhân quả. Nhiều người do tự mình tu không đúng tông chỉ của pháp môn, trở lại phỉ báng Phật pháp không hiệu nghiệm, là phỉ báng Phật Pháp Tăng, tạo tội địa ngục. Bất cứ tu pháp môn nào; Thiền tông, Mật tông, Tịnh độ … tất cả đều là phương tiện của Phật dạy, phải tu đúng theo tông chỉ mới được.
209. HỎI: Tu Tịnh Độ là phải trải qua mấy A-tăng-kỳ kiếp mới được vãng sanh, phải không?
- Ø ĐÁP: Nói “A-tăng-kỳ Kiếp” là bên Giáo môn, còn Tịnh Độ hạ phẩm hạ sanh phải ở trong hoa sen mười hai đại kiếp mới ra khỏi bông sen. Còn Thiền tông thì không cần đợi đến chết, lúc còn sống vẫn có thể kiến tánh thành Phật.
210. HỎI: Người tham thiền nếu còn biết đến kiếp trước hoặc nhiều kiếp thì vẫn còn bị hạn chế bởi thời gian, mà hành giả tham thiền nếu ôm chặt câu thoại đầu, trở về với Bát-nhã, không còn khái niệm thời gian, thời gian chỉ là vọng tưởng sai lầm của chúng sanh từ lâu. Như Kinh Kim Cang nói “Tâm quá khứ, hiện tại, vị lai đều bất khả đắc”, thế thì hành giả tham thiền cũng chẳng cần biết đến một kiếp hay hai kiếp, một năm hay hai năm, chỉ biết là ôm chặt câu thoại đầu thì chắc chắn trở về nhà được, không nên bị lệ thuộc bởi thời gian, chướng ngại cho sự tu, có phải vậy không?
- Ø ĐÁP: Phải, nhưng cái đó là sau khi chứng ngộ mới được. Nay hễ có nói ra là sai rồi; phàm hữu ngôn thuyết, giai phi thật nghĩa, đối với người hỏi, chỉ hỏi một trả lời một, hỏi hai trả lời hai, vì muốn giúp ích cho người hỏi, mới thuyết Kinh liễu nghĩa và bất liễu nghĩa. Phật thuyết Kinh bất liễu nghĩa rồi mới ở trong Kinh liễu nghĩa dạy người phải y theo Kinh liễu nghĩa, chứ không được y theo Kinh bất liễu nghĩa. Thế thì tại sao Phật lại thuyết Kinh bất liễu nghĩa? Ấy cũng là do tùy cơ hóa độ.
211. HỎI: Thế nào là “Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết”?
- Ø ĐÁP: Nếu muốn giải nghĩa là phải giải đúng ý Phật, chứ không được giải theo văn tự lời nói. Bởi vì lời của Phật là phá chấp, nếu theo văn tự để giải nghĩa, hễ Phật nói Có thì mình chấp cái Có đó là thật, hễ Phật nói Không thì lại chấp cái Không đó là thật, ấy là oan cho Phật. Còn nếu “Ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết”: Kinh là phá chấp, nếu lìa Kinh tức còn chấp, còn chấp là ma, không thể giải thoát được.
212. HỎI: Hồi xưa khi đi học giáo lý, Thầy có dạy “Tụng Kinh giả minh Phật chi lý, niệm Phật giả cảm Phật chi ơn, trì chú giả phát Phật chi huệ, tọa Thiền giả kiến Phật chi tánh”, cho nên chúng con sắp giờ tụng Kinh, niệm Phật, trì chú, tọa thiền, làm hết! vậy có đúng không?
- Ø ĐÁP: Ấy cũng như Trí Giả Đại sư nói “Học Phật pháp thành ngoại đạo”, tự cho ý của mình là ý Phật. Nói “Tụng Kinh để minh Phật chi lý”, là lý gì? Lý đó là giáo lý, tức lời giáo hóa của Phật. Tất cả giáo lý, tất cả Kinh Đại thừa liễu nghĩa đều là phá chấp, rồi bây giờ lại chấp thật, tức là nghịch với giáo lý, làm sao minh được? Nói “Tụng Kinh bất minh giáo lý” mới đúng!
Nói “Niệm Phật để cảm Phật chi ơn”, Ơn của Phật là gì? Là chỉ đường lối tu hành cho mình tu theo khiến được giải thoát, nay muốn cảm ơn Phật mà nghịch với đường lối của Phật, theo như Trí Giả Đại sư nói, theo giới luật là tạo tội địa ngục!
213. HỎI: Xin Sư phụ giải thích hai chữ “Giáo lý”.
- Ø ĐÁP: Hai chữ GIÁO LÝ là nghĩa lý trong Kinh giáo, tác dụng và mục đích của giáo lý là để phá chấp. Tại sao? Bởi do chúng sanh chấp thật, nên bị kẹt nơi sanh tử luân hồi chẳng thể ra được, nên giáo lý là dạy cho chúng sanh phá chấp để thoát khỏi luân hồi, phải thực hành theo giáo lý mới mong giải thoát.
Bất cứ tám mươi bốn ngàn pháp môn, đều là phương tiện do Phật lập ra, tất cả đều nằm trong giáo lý, chẳng có ngoài giáo lý; kể cả pháp môn Tổ Sư Thiền, nói là giáo ngoại biệt truyền, ấy chỉ là phá cái chấp thật về giáo lý, nhưng cũng là nằm trong giáo lý. Trong Bát Nhã Tâm Kinh phá hết tất cả các chấp từ Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa … đều là thực hành đúng theo giáo lý chứ chẳng ở ngoài giáo lý.
Bốn Tông của pháp Đại thừa Trung Quốc là Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Duy Thức, thuộc về Giáo môn; và bốn tông thực hành là Thiền tông, Tịnh độ, Mật tông và Luật tông. Đối với bốn tông thực hành thì người chẳng biết giáo lý, chẳng cần biết qua giáo lý vẫn thực hành được, còn bốn tông của Giáo môn thì căn cứ theo Kinh giáo, như Thiên Thai căn cứ Kinh Pháp Hoa, Hiền Thủ căn cứ Kinh Hoa Nghiêm … cho nên vừa học giáo lý vừa thực hành theo Kinh giáo.
Người thời nay học giáo lý mà nghịch với giáo lý, các Phật Học Viện đa số chỉ dạy giáo lý mà không có phần thực hành, rồi dạy Kinh lại hướng dẫn phương pháp niệm Phật, dạy một cách tạp lộn, tức áp dụng không đúng tông chỉ của Kinh đó, khiến giáo lý chẳng còn tác dụng, chẳng được lợi ích.
214. HỎI: Trong Kinh Địa Tạng nói: Công đức tụng Kinh cho người chết, người chết hưởng một phần, người sống được sáu phần, vậy có đúng không?
- Ø ĐÁP: Ấy chẳng phải là lời trong Kinh, mà là do người tự làm tài khôn thêm vào, cũng như trong Kinh, người ta thêm vào mười hai đại nguyện, người đời chẳng biết, tưởng là nguyên văn như thế, chẳng những Kinh Địa Tạng, kể cả Kinh Đại Tạng cũng có chen vào kinh ngụy. Pháp thế gian còn phải có nhân quả, chẳng thể lìa nhân quả, huống là Phật pháp!
Nói đến vấn đề tụng Kinh, người sống được sáu phần, người chết được một phần, ấy là không có nhân quả! Nếu vậy thì lúc còn sống chẳng cần tu hành, chẳng cần làm việc thiện, làm ác cũng chẳng sao, miễn có tiền là được, sau khi chết, hễ con cháu mời một trăm người tụng Kinh thì người chết được một trăm phần công đức, mời một ngàn người tụng Kinh thì được một ngàn phần công đức… mời nhiều chừng nào thì công đức nhiều chừng nấy, phải vậy không? Thế thì nhân quả ở đâu? Người làm ác cứ làm ác, hễ có tụng là được rồi! Đó chính là lý do tại sao con người càng ngày càng khổ thêm, tạo nghiệp càng nặng thêm!
215. HỎI: Khi có người chết, bên Tịnh Độ thì trợ niệm, còn Thiền tông phải làm gì? Có cần người nhắc nhở câu thoại đầu cho người lâm chung?
- Ø ĐÁP: Người tham thiền chỉ đề câu thoại đầu tham tới mãi. Mục đích tham Tổ sư Thiền là muốn làm chủ cho mình, trước mắt còn sống khỏe mạnh, nếu không tập cho tự làm chủ được, đến lúc lâm chung nhờ người xung quanh nhắc nhở, nhồi nhét cho mình là muộn rồi! Có ỷ lại thì làm sao tự chủ được? Phải lúc bệnh cũng làm chủ được, lúc chiêm bao cũng làm chủ được, tức trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào cũng tự chủ được mới xong.
216. HỎI: Tại sao có Kinh liễu nghĩa và Kinh bất liễu nghĩa?
- Ø ĐÁP: Do bệnh của chúng sanh ham chấp thật, bệnh quá sâu nặng, chẳng thể bỏ chấp được, nên Phật phải thuyết Kinh bất liễu nghĩa, để tạm thời làm việc thiện, gieo trồng thiện căn, hơn là đi làm việc ác. Nếu người bệnh chấp nhẹ, có thể tiếp nhận Kinh liễu nghĩa thì chẳng cần qua phần bất liễu nghĩa.
Kinh bất liễu nghĩa của Đức Phật khác hơn Kinh bất liễu nghĩa của ngoại đạo; vì nguồn gốc của ngoại đạo là chấp thật, nên mãi mãi là bất liễu nghĩa. Còn nguồn gốc của Phật pháp là vô sở trụ, vốn chẳng có liễu nghĩa và bất liễu nghĩa, do phương tiện tạm thời thuyết pháp bất liễu nghĩa, sau đó sẽ đi vào con đường liễu nghĩa. Nếu đã tin vào liễu nghĩa mà còn chấp thật, ấy là nghịch với pháp liễu nghĩa vậy.
217. HỎI: Trước khi biết tu pháp môn tham Thiền, hàng tháng chúng con vẫn đến chùa sám hối, Bố tát, tụng Kinh…. Nay nếu không đi thì có tội không?
- Ø ĐÁP: Ở trên tôi đã nói: “Câu thoại đầu là bao gồm tất cả”, như đang gánh nước bữa củi cũng là thoại đầu, ăn cơm ngủ nghỉ cũng là thoại đầu, tụng Kinh sám hối cũng là thoại đầu, chỗ nào cũng là thoại đầu thì đâu có gì khác? Nay nếu trong lúc Bố tát còn câu thoại đầu không? Hễ còn thì chẳng có gì là chướng ngại cả. Tội với vô tội là do tâm tạo, nếu tâm không tạo thì tội làm sao có! Ngài Lục Tổ nói “Tất cả đều chẳng chướng ngại”, chớ cho là “Cần” hay “Không cần”, tùy người tùy nơi, nếu cảm thấy thoại đầu bị công việc đó đánh mất thì phải tập cho không bị đánh mất; ví như lúc ăn cơm, thoại đầu không có, thế thì bỏ cơm không ăn ư? Vậy phải làm sao? Phải tập cho lúc ăn cơm cũng có thoại đầu, miễn tất cả nơi đều không quên câu thoại đầu.
218. HỎI: Bửa củi, gánh nước dễ tham, nhưng khi lên chánh điện, được cử làm Duy na dẫn chúng, hễ làm tròn nhiệm vụ thì đánh mất câu thoại, hễ lo tham thoại đầu thì e không làm tròn nhiệm vụ, vậy phải làm sao?
- Ø ĐÁP: Trong Truyền Đăng Lục có một câu chuyện về thủ đoạn của Tổ sư như sau:
Có một vị Tăng đến cầu pháp, Tổ sư bảo:
- Pháp luân chưa chuyển thực luân chuyển, nay ông hãy đi hóa duyên xin gạo về cho đại chúng.
Khi trở về, Tổ lại bảo:
- Mùa Đông lạnh giá, chùa đang thiếu củi, hãy đi hóa than về!
Vị Tăng vâng lời, sau khi trở về, Tổ lại bảo:
- Hãy giữ lấy chức vị Duy na.
Vị Tăng tuy nhận lời, nhưng trong bụng cảm thấy nôn nao khó chịu, trong bụng rất nghi, tự nghĩ: “Nghe nói Tổ sư là vị thiện tri thức có tiếng tăm, vậy mà đến cầu pháp sao không chỉ dạy, mà chỉ sai làm đủ thứ việc, vậy thì làm sao giải thoát được?”
Mặc dù làm Duy na, nhưng cuối cùng cũng kiến tánh. Ấy là thủ đoạn của Tổ sư, tùy theo nhân duyên của mọi người, nên Lục Tổ nói là “Tất cả đều chẳng chướng ngại”. Vã lại, nếu do tham thoại đầu mà quên đánh chuông gỏ mõ … thì người ta trách thì cứ trách, chỉ chiếu cố câu thoại, ngoài ra không biết tới.
219. HỎI: Nếu Phật tử quy y vị tăng không chơn chánh hành pháp, tức như Sư phụ nói là học Phật pháp thành ngoại đạo, nếu cứ theo ủng hộ thì có tội không? Nếu không ủng hộ, có phản thầy không?
- Ø ĐÁP: Vậy thì như Kinh Lăng Nghiêm nói: “Cả thầy lẫn trò đều theo đó mà đọa”. Việc quy y là quy y Tam Bảo, bao gồm Phật, Pháp, Tăng, nghĩa chữ Tăng là hòa hợp chúng, phải gồm bốn người mới thành Tăng. Vị Tăng đó chỉ là thay mặt cho Tam Bảo chứng minh người đó là đệ tử của Tam Bảo, chứ không phải đệ tử của một thầy nào.
Nếu cho là quy y một vị thầy, như Hoằng Nhất Luật sư nói “Quy y Nhị Bảo chứ chẳng phải Tam Bảo”, chỉ là quy y Phật Bảo, Pháp Bảo và giao thiệp với một Đại đức, vì chỉ có một người thì chẳng thành Tăng, chẳng phải Tam Bảo.