660. HỎI: Vậy tham Tổ Sư Thiền không nhập Hạ thì không có tuổi hạ ư?
- ØĐÁP: “Hạ” cũng là tuổi Lạp, thọ giới được một năm thì được một tuổi hạ. Tất cả Tu sĩ đều phải nhập Hạ, cũng có một số du Tăng ngày thường đi khắp mọi nơi, không tụ tập một chỗ, chỉ có ba tháng Hạ là tụ chúng chuyên tu, bắt buộc phải tu trong ba tháng Hạ, ấy cũng là một việc hữu ích để nhắc nhở cho sự tu.
661. HỎI: Con tưởng là phải nhập Hạ rồi mới có tuổi Hạ?
- ØĐÁP: Nếu là người chơn tu thì ngày nào cũng như ngày nấy, suốt năm đều là Hạ. Cũng như hành giả tham Thiền, chẳng phải chỉ có chín mươi ngày là Hạ, Tổ sư nói “Ngay từ bắt đầu tham là nhập Hạ, đến khi kiến tánh mới giải Hạ”. Nếu chưa kiến tánh thì chưa giải Hạ.
662. HỎI: Con vốn chuyên tu niệm Phật trì chú, cũng tham thiền “Lục Diệu pháp môn” do Hòa Thượng Thanh Từ hướng dẫn, nhưng cũng gặp những chướng ngại về sự ma chay do nhu cầu của Phật tử xin tụng Kinh bái sám. Vậy không biết khi thực hành theo Pháp môn Tổ Sư Thiền, có gặp phải những trở ngại như trên không?
- ØĐÁP: Các Phật sự cứ việc làm, bất kể làm nghề nghiệp gì cứ làm, trong lịch sử Thiền tông, ông vua kiến tánh vẫn làm vua, Thừa tướng kiến tánh vẫn làm Thừa tướng, bộ trưởng, tỉnh trưởng, cho đến bà cụ tay bưng vai gánh, bán rong ở ngoài đường, kiến tánh rồi vẫn y như cũ. Làm nghề tụng Kinh cứ tụng Kinh, nhưng đừng quên thoại đầu, đừng cho nghi tình gián đoạn là được, chẳng có gì trở ngại.
663. HỎI: Kiến tánh rồi đi về đâu?
- ØĐÁP: Phật tánh của tất cả chúng sanh, người nào cũng cùng khắp không, gian thời gian, đã cùng khắp thì đâu thể chỉ ra? Khi đã kiến tánh rồi, đâu còn đi về đâu? Có “Đi về đâu” ắt chưa cùng khắp. Ví như người đời luyện tập thần thông, từ đây bay qua Mỹ cần năm phút, nhưng đó chẳng phải thần thông sẵn có của Phật tánh. Thần thông của Phật tánh khắp không gian, chẳng cần bay, muốn hiện chỗ nào cũng được, phải tự tin rằng mình đã sẵn đủ tất cả.
664. HỎI: Nếu tự có sẵn nghi tình, lấy đó tham tiếp mà không chọn những câu thoại trong sách, được không?
- ØĐÁP: Nếu đã có nghi tình từ nhỏ, đối với vũ trụ vạn vật hay đối với việc của mình, đã thắc mắc rồi, lấy đó để tham cũng được, nhưng phải chẳng thể giải thích, chẳng thể tìm hiểu mới được. Nếu có thể dùng một lý lẽ nào đó, hoặc dùng Phật pháp để giải ra đáp án thì không được.
665. HỎI: Tại sao gọi người đã kiến tánh là Tổ chứ chẳng gọi là Phật?
- ØĐÁP: Sau khi chứng Diệu Giác mới gọi là Phật, người kiến tánh rồi cao nhất là đến Đẳng giác, tức chưa đến Diệu giác, vì tập khí xuất thế gian vẫn còn. Lại nữa, phàm phu kiến tánh, tập khí thế gian vẫn còn, làm sao gọi là Phật! Đến quả Diệu Giác, tập khí thế gian lẫn xuất thế gian đều sạch, bản thể của Phật tánh luôn hiện hành khắp không gian, thời gian. Còn chư Tổ thì tập khí thế gian còn chưa dứt sạch, huống là tập khí xuất thế gian! Nên chỉ được gọi là Tổ, không thể gọi là Phật, mặc dù đã kiến tánh thành Phật. Bây giờ chưa kiến tánh cũng đã thành Phật rồi, “Tất cả chúng sanh đều đã thành Phật”, ấy là lời nói của Phật trong Kinh Viên Giác.
666. HỎI: Tham Thiền có cần tụng giới không?
- ØĐÁP: Theo giới luật thì tu pháp môn nào cũng phải có giới luật, nửa tháng bố-tát một lần. Bố-tát không phải chỉ tụng giới, trước khi tụng phải kiểm thảo, tự kiểm thảo mình trong nửa tháng nay có phạm giới không? Nếu có, phải ra sám hối trước đại chúng. Sám hối xong, tội phạm giới mới sạch, mới có tư cách nghe tụng giới.
Nếu người phạm giới không tự ra sám hối trước đại chúng, thì người ở chung phải ra cử tội, nếu không ra cử tội, sau này bị phát hiện thì người phạm và người không cử tội sẽ bị cùng một tội vì che giấu. Hồi xưa, bố-tát truyền giới cho cả Sa-di và Bồ-tát, sau này mới lập riêng giới đàn. Cho nên, bố-tát không có nghĩa là chỉ tụng giới mà thôi.
667. HỎI: Tu sĩ phạm tội Ba-la-di có thể sám hối được không?
- ØĐÁP: Sau khi phạm tội Ba la di, phải trong nửa tiếng báo cáo Tăng Đoàn, Tăng đoàn mới hứa khả cho sám hối, nhưng chưa phải như thế là nhất định được sám hối. Vì theo pháp Yết-ma, muốn sám hối tội Ba-la-di phải hai mươi vị Tỳ-kheo, người xin sám hối phải săn sóc hai mươi vị đó trong nửa tháng, về cuộc sống hằng ngày cho đầy đủ. Nếu hai mươi vị đều cảm thấy người đó thành tâm muốn sám hối, đồng ý cho sám hối thì mới thành lập được; nếu trong đó có một vị không đồng ý, cũng chẳng thể tổ chức sám hối.
668. HỎI: Sở dĩ Đức Phật chế định giới luật cũng là căn cứ theo luật pháp nhà nước, ví như giới Ba-la-di, cũng bằng như luật tử hình của nhà nước, phải không?
- ØĐÁP: Phật tử vi phạm luật pháp của nhà nước, tức vi phạm giới luật của nhà Phật, đó là do Đức Phật muốn sự hoằng pháp đến nước nào cũng được hoan nghinh. Tỳ-kheo có bốn giới Ba-la-di và Tỳ-kheo-ni có tám. Tội Ba-la-di, cũng bằng tội tử hình của nhà nước, nhưng tội tử hình của nhà nước có xử tử thật, còn tử hình bên nhà Phật chỉ là kiếp này không được làm Tỳ-kheo nữa, coi như vị Tỳ-kheo đó đã chết. Nếu xin sám hối mà được chấp nhận, chỉ giữ được Sa-di, nếu sám hối không được, thì luôn cả Sa-di cũng không còn, phải đợi kiếp sau bắt đầu lại.
669. HỎI: Luật pháp Nhà nước thời nay có nhiều châm chước thuyên giảm, vậy giới luật nhà Phật có thể ứng dụng như thế nào để phù hợp theo thời đại không?
- ØĐÁP:Giới luật nhà Phật cũng có phần linh động, nhưng thuộc về phần Giá giới, còn về Tánh giới thì không được. (Sư phụ giảng về Tánh giới và Giá giới, lược qua).
Về tánh giới, nếu đã phạm thì có tội phá giới, nếu chưa thọ giới cũng phải có tội nhân quả. Tội phá giới thì sám hối có thể hết, ví như tội phá giới Ba-la-di phải đọa địa ngục chín triệu năm, hễ sám hối là hết; còn tội nhân quả thì không thể sám hối được, nhân nào quả nấy.
Có người nói “Vậy thì không thọ giới tốt hơn, chỉ phải chịu tội nhân quả, khỏi bị hai lớp tội”. Sự thật, người có thọ giới phải để ý về vấn đề giữ giới, nên tội nhân quả cũng ít, người không thọ giới hằng ngày cứ theo thói quen mà làm, dễ phạm phải tội nhân quả.
670. HỎI: Tại sao Thiền sư Bác Sơn nói: “Công phu khẩn mà không chánh thì uổng dụng công, chánh mà chẳng miên mật thì không thành dung hoát, chẳng dung hoát thì không tương ưng, chẳng tương ưng thì không thể nhập, và không thể hóa cảnh”?
- ØĐÁP: Việc đó là lẽ dĩ nhiên rồi, vì công phu không miên mật tức có kẽ hở, vọng tưởng phiền não từ đó nổi lên, làm sao dung hoát! Làm sao nói là khẩn, là chánh? Hóa cảnh tức dung hoát.
671. HỎI: Vậy còn các từ “Chuyển thân nhã khí”, “chuyển vị khai cơ”, “hồi quang phản chiếu”… là như thế nào?
- ØĐÁP: (Sư phụ kể về câu chuyện một ngoại đạo có thần thông và xá lợi, không bằng đáp được một câu chuyển ngữ của Thiền sư, xem câu 585 ).
Tại sao Thiền tông chú trọng câu chuyển ngữ? Vì bản thể của tự tánh là vô sở trụ, chuyển ngữ tức là lời vô sở trụ. Chỉ cần đáp được một chuyển ngữ là thầy biết người trò đó đã kiến tánh và ấn chứng liền. Nay chưa kiến tánh, cứ đuổi theo lời nói có sở trụ, trả lời cho hợp lý đúng nghĩa, nhưng đó chẳng phải chuyển ngữ. (Sư phụ kể về câu chuyện bà già đốt am, lược qua), “Chuyển thân nhã khí”, “Đè hồ lô trên nước” v.v… đều là những câu vô sở trụ.
672. HỎI: Thế nào là “Ngôi học còn dính bụi”?
- ØĐÁP: “Ngôi học còn dính bụi, cực sáng tức Như Lai”, đó là bài kệ trong Kinh Lăng Nghiêm, tả về biển giác của Tự tánh. Theo cuốn Hoa Nghiêm Hợp Luận, tác giả Lý Thông Huyền là một cư sĩ kiến tánh, nói: “Sơ tâm Bồ-tát vì lòng tin chưa vững chắc, được thấy biết ít phần Pháp thân Như Lai chẳng đoạn diệt, chẳng khứ lai. Chẳng đoạn diệt tức khắp thời gian, chẳng khứ lai tức khắp không gian, nhưng Bồ-tát này còn chưa thể lìa sự phân biệt vi tế, nên chỉ thấy thô dụng, chưa vào được ngôi Pháp thân”.
Tiến thêm một bước, Tịnh tâm Bồ-tát hơn sơ tâm Bồ-tát, nhưng còn thấy vi tế dụng. Như thế dần dần tiến lên, đến bậc Bồ-tát cứu cánh, mới hết thấy vi tế dụng, gọi là thân thọ dụng.
Vì còn có nghiệp thức, nên thấy tâm có thọ dụng, nếu lìa nghiệp thức thì chẳng thể thấy. Tại sao? Vì tất cả Như Lai đều là Pháp thân, Pháp thân chẳng có sắc tướng sai biệt để thấy nhau, nên chẳng thể thấy. Tại sao hết thấy vi tế dụng gọi là thân thọ dụng? Vì còn có thân thọ dụng để biết sự hết thấy, vẫn là tướng vi tế của nghiệp thức. Các bậc hữu học và vô học còn dính mắc với tướng vi tế này, như tấm gương còn dính bụi, nên nói “Ngôi học còn dính bụi”.
Nếu nghiệp thức vi tế đã sạch, chẳng thấy có sự thọ dụng, gọi là Pháp thân Như Lai. Vậy bụi sạch thì gương sáng tỏ, nên nói “Cực sáng tức Như Lai”.
Đối với câu: “Phản văn Tự tánh văn”, nhiều người còn hiểu sai về câu này, nên tôi ghi chú thêm:
Nếu chấp cái nghe là thật thì không nghe ngoài phải nghe trong, không nghe động phải nghe tịnh; nghe trong, ngoài động, tịnh đều là bỏ gốc theo ngọn, nên gọi là cái nghe điên đảo. Nay xoay cái nghe điên đảo này về chánh, chánh thì chẳng có năng nghe sở nghe, mới gọi là phản văn, cũng là bản tánh văn. Nghịch cảnh trần, hợp giác tánh, mới gọi là chánh. Đã trở về bản tánh văn, tức thấy bản lai diện mục của Phật tánh, cũng là tánh văn này, liền thành Vô thượng Bồ-đề.
Trong Kinh Lăng Nghiêm nói: Do có lục trần mới phát ra cái tri, vì có lục căn mới hiện ra tướng này tướng kia, nên nói “Do trần phát tri, nhân căn hữu tướng”. Nếu không có lục trần thì kiến văn giác tri đặt ở chỗ nào? Chẳng thể sanh ra được.
Lục trần lục thức sanh lẫn nhau, cũng như con gà với trứng gà; chẳng có lục trần thì lục căn không có đối tượng để đặt. Lại nữa, chẳng có lục căn thì không thể biết đến lục trần, nhưng cái biết phải có lục trần mới có thể sanh khởi. Chúng sanh điên đảo, cho những thứ đó là của mình, nên Đức Phật mới ở trong Bát Nhã Tâm Kinh dùng chữ VÔ để quét sạch lục căn, lục trần, lục thức.
673. HỎI: Tịnh khẩu có ích lợi gì không?
- ØĐÁP: Chẳng những không có lợi ích, lại còn có hại vì làm cho mình tu không được.
674. HỎI: Kiến tánh là gì?
- ØĐÁP: Đợi ông kiến tánh rồi thì biết.
675. HỎI: Trong bốn tội Ba-la-di, trường hợp tứ chúng biết được người ấy phạm tội, báo lên vị Trụ trì, Trụ trì không cử tội thì tứ chúng có lỗi không?
- ØĐÁP: Bây giờ đâu có Tăng đoàn để cử tội? Lại nữa, trong Phật pháp rất linh động, cái nào cần cử tội mới cử tội, những việc không cần cử tội, chỉ cho trách tâm sám. Đức Phật hoằng dương Phật pháp, muốn cho thiên hạ đều tôn trọng Phật giáo, tôn trọng Tăng ni, Phật tử chơn chánh hoặc thọ ngũ giới hay Bồ-tát giới. Cho nên, giới Bồ-tát không cho nói lỗi của Tứ chúng; Tỳ-kheo-ni nói lỗi của người khác cũng phạm tội Ba-la-di. Lại nữa, đối với những người trong Phật giáo hoằng pháp rộng, nhiều người biết tên tuổi, thì trong giới luật không cho cử tội. Tại sao? Vì sợ ảnh hưởng uy tín của Phật giáo. Mặc dù không cho cử tội, nhưng nếu họ phạm Ba-la-di, tội địa ngục phải chín triệu năm chứ không bớt được.
676. HỎI: Như hiện giờ một vị có tội, chúng đã phát hiện, người đó chẳng những không sám hối, vẫn sống bình thường như người không phạm, vẫn đắp áo Cà sa, vậy là thế nào?
- ØĐÁP: Trong giới luật có hơn 130 thứ Yết-ma, pháp Yết-ma của Phật giáo rất kỹ, mỗi thứ Yết-ma làm về việc gì, phải có bao nhiêu người, hai mươi người, mười người, năm người hoặc hai người ... Hai người gọi là: “Đối thú Yết-ma”, tức không có ai ngoài hai người đó biết. Yết-ma xử tội, phải thấy, nghe hoặc nghi, rồi phải có bằng chứng, bằng chứng có thể mời một nữ cư sĩ ra làm chứng. Mà cư sĩ đó phải được Tăng đoàn mời, nếu không được mời mà tự ra làm chứng là phạm giới.
Nay không có Tăng đoàn, không có Yết-ma để xử tội, thì làm sao phán đoán là người ấy có tội? Còn những người phạm thượng, tự đã có tội trước, lại công khai nói tội của người khác, là phạm giới. Vì giới Bồ-tát không cho nói lỗi của tứ chúng. Nếu muốn nói cũng được, nhưng chỉ có hai người, không có người thứ ba, rồi mình khuyên người đó.
677. HỎI: Nếu bằng chứng đã có, hai người đã khuyên với nhau, nhưng người ấy vẫn không sửa đổi?
- ØĐÁP: Ai xử cho người đó có tội? Người ta phải tổ chức Yết-ma rồi xử tội, hoặc trong lúc bố-tát, báo cáo với vị chủ tịch được chúng cử ra để xử tội, đâu phải người nhỏ xử tội người lớn được! Nhỏ mà nói lỗi của người lớn, tự mình còn có lỗi nữa!
Tại sao giới luật của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni không cho người chưa thọ giới nghe và xem? Sa-di, Thức-xoa không được nghe và xem giới Tỳ-kheo-ni, nhưng Tỳ-kheo phải biết giới của Tỳ-kheo-ni. Vì trong giới luật có ghi về pháp Bát kỉnh của Tỳ-kheo-ni, mỗi nửa tháng phải mời Tỳ-kheo đến dạy, cho nên, Tỳ-kheo phải thông suốt giới luật của Tỳ-kheo-ni.
Chưa thọ giới Tỳ-kheo không được xem giới Tỳ-kheo, vì sợ khi biết rồi phỉ báng Tỳ-kheo, cho Tỳ-kheo này là phạm giới, là tự mình tạo tội. Tỳ-kheo phạm giới tự phải chịu tội, bởi vì người nào cũng có sai sót. Có phạm, phạm rồi có sám hối, hễ sám hối là hết tội phá giới. Nếu người chưa thọ giới nói lên lỗi đó, chẳng những làm mất uy tín của Phật Giáo, lại phạm tội nói lỗi tứ chúng. Nay có nhiều người tự ỷ thông minh lanh lợi, phỉ báng người cao hơn, ấy là tự tạo lỗi vậy.
678. HỎI: Tại các chùa có từ bốn vị Tỳ-kheo trở lên, phải tác pháp Yết-ma, ấn định cương giới, sau đó làm Phật sự mới đúng pháp, phải không?
- ØĐÁP: Phải. Theo pháp Yết-ma trong giới luật ấn định, bất cứ cái gì, đều phải qua pháp Yết-ma. Nhưng nay ở Việt nam, chỉ có truyền giới hoặc bố-tát, kiết Hạ mới qua Yết-ma, những Yết-ma của bố-tát cũng không đủ, chỉ là tụng giới.
679. HỎI: Tham thoại đầu với Bát-nhã Ba-la-mật có tương ưng không?
- ØĐÁP: Bát-nhã dịch là trí huệ, nhưng chẳng phải trí huệ của bộ não, không qua bộ não, là trí huệ của Tự tánh. Tổ Sư Thiền là muốn hiển bày trí huệ của Tự tánh. Tên gọi Bát-nhã chỉ là một trong muôn ngàn tên gọi. Vì bản thể của Phật tánh cùng khắp không gian, thời gian, nên sự dụng của Phật Tánh cũng cùng khắp, chẳng số lượng, chỉ tùy dụng mà lập danh:
Vì Phật tánh khắp không gian chẳng khứ lai, nên gọi là Như Lai, đúng như Bản lai; cùng khắp thời gian, không gián đoạn, sanh diệt, nên gọi là Niết-bàn; vì muốn hiển bày cái dụng vô sở trụ, nên gọi Vô trụ; vô trụ thì không có chỗ, không có lúc, nên gọi Tánh không … Mặc dù tên gọi có khác, nhưng thể dụng chẳng khác.
680. HỎI: Sự dụng của chư Phật, chư Tổ có khác nhau không?
Ø ĐÁP: Luôn cả sự dụng của cô, với chư Phật chư Tổ cũng chẳng khác; không những là cô, luôn cả các loài động vật cũng chẳng khác. Đã là bất nhị, thì thân Phật, thân Bồ-tát, thân người, thân động vật dù khác, nhưng Phật tánh chẳng khác.
681. HỎI: Tại sao chư Phật, chư Tổ một nghe ngàn ngộ, mà chúng con được Sư phụ khai thị nhiều vẫn chưa được ngộ? Và Sư phụ chưa chỉ định một vị nào sau này nối tiếp Sư phụ?
Ø ĐÁP: Chưa kiến tánh là tại mình chưa chịu đi, nếu có tâm quyết tử như chư Tổ mới mau được. Nay mặc dù chưa kiến tánh, nếu thực hành đầy đủ, đúng pháp, cũng đã gieo chánh nhân, kiếp này chưa ngộ, kiếp sau cũng tiếp tục. Tôi thì chưa kiến tánh, chỉ là biết được đường lối thực hành của chư Tổ và chuyển dạy cho quý vị. Mọi người cứ tiếp tục theo đường lối đó tu hành là đủ.
682. HỎI: Ngài Lai Quả nói: “Đánh chết người phạm quy củ, “Vậy có phải thiếu lòng Từ bi và phạm tội sát sanh không?
ØĐÁP: Dùng hương bảng đánh người phạm quy củ là tỏ lòng Từ bi rất thiết tha. Ngài nói trong Tham Thiền Phổ Thuyết và giải nghĩa rất kỹ: Sở dĩ đánh là muốn đưa tới giác ngộ giải thoát tất cả khổ. Ấy là lòng Từ bi không gì so sánh bằng.