140. HỎI: Một người không xem sách vì sợ kiến giải mà chỉ một mực chú tâm tham thiền, với một người vừa tham thiền vừa nghiên cứu sách, cái nào tốt hơn?
- Ø ĐÁP: Tốt nhất là chuyên tâm tham Thiền. Tôi thường lấy việc ăn cơm để thí dụ: Người xem sách Thiền, hiểu biết kỹ về thiền, cũng như người thông minh tài giỏi, nhà bác học mà nghiên cứu trong chén cơm có bao nhiêu chất bổ, bao nhiêu Vitamine, lại phân tích có bao nhiêu Vitamine A, Vitamine C… biết rất nhiều nhưng không ăn cơm. Còn người kia dốt nát, không biết gì cả, chỉ biết ăn cơm mà thôi. Người không biết gì cả, chỉ biết ăn cơm thì người ấy được no, còn người thông minh bác học kia biết đủ thứ, nhưng không ăn cơm thì người ấy chịu đói vậy.
Mặc dù người dốt nát kia chẳng biết Vitamine là gì, nhưng đã ăn cơm, đã được tiêu hóa rồi, thì nhổ ra nước miếng cũng là Vitamine.
141. HỎI: Đối với người biết tham thoại đầu lại chưa có lòng tin thì sao?
- Ø ĐÁP: Hàng tuần thuyết pháp tôi vẫn thường nói: “Tôi chẳng phải giảng giáo lý cao siêu để cho người nghe biết thêm về giáo lý, chỉ là tăng trưởng lòng tin cho mọi người”.
Lòng tin rất cần, nhưng không phải chỉ tin pháp môn là đủ. Trong Tham Thiền Cảnh Ngữ có nói: “Nếu chỉ tin pháp môn tham Thiền này, cho dù tin 100% vẫn chưa đủ. Tại sao? Vì chỉ tin theo pháp môn, chưa tin tự tâm”. Người tham Thiền phải tin rằng “Tự tâm mình là Phật”. Trong cuốn Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải có nói: “Nếu tin tự tâm là Phật, gọi là chánh tín; nếu tin ngoài tâm có Phật, ấy là tà tín”. Nên cần nhất phải là tin tự tâm và sau đó mới tin pháp môn.
Do đó, nếu chuyên tâm thực hành thì trong một, hai tuần lễ sẽ nổi được lòng tin, vì thấy mình đã có tiến bộ. Có một vài cụ già sau khi thực hành vài tuần thì cảm thấy phiền não bớt đi nhiều, tự nhiên tăng trưởng lòng tin. Tự tạo được lòng tin thì lòng tin ấy mới mạnh, nếu chỉ dựa vào sách vỡ, kinh nghiệm của người khác là vô dụng.
Trung Phong Thiền sư có thí dụ về “Con dấu vàng”: Con dấu thể hiện sự tín nhiệm, nhà vua có con dấu vàng của vua, quan chức có con dấu của quan chức, người buôn bán cũng tự có con dấu riêng. Có con dấu thì được mọi người tin cậy, nhưng con dấu đó phải là của chính mình mới được, giả sử cho ông lượm được con dấu bằng vàng, nếu không phải của mình thì rốt cuộc xài chẳng được.
Con dấu dụ cho cái gì? Dụ cho sự ngộ của Phật, của Tổ. Lời nói của Phật, của Tổ thì mọi người tin, nếu lượm được lời của Phật của Tổ mà cho là của mình thì chẳng những không xài được, còn mắc tội nữa! nên coi sách cho nhiều cũng chẳng ích lợi gì. Tự ngộ rồi mới là của mình.
Cảm tưởng của Sư bà Huê Lâm:
Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Kính bạch Thượng Tọa Thiền Sư,
Hôm nay là ngày viên mãn Thiền thất, con xin đại diện cho tất cả chư hành giả hiện diện, nói lên lời cảm nghĩ của con:
- Qua 7 ngày dự đạo tràng tu tập tham Thiền, vừa ngồi thiền và kinh hành trong tám giờ đồng hồ, Thượng tọa Thiền sư chẳng màng lao nhọc, dìu dắt chúng con, chỉ dạy phương pháp tham Thiền, cả giáo lý lẫn thực hành, rất là kỳ diệu.
- Theo con được hiểu, tham Thiền chẳng phải là giáo lý thiển cận, mà là phô diễn giáo lý tột đỉnh của tất cả tư tưởng Phật giáo, một lý thuyết trực chỉ, có thể đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ, giải thoát viên mãn. Con có cảm nghĩ toàn thể bí mật của sự tu tập tham Thiền nằm trọn trong bản giác bình dị, nhưng rất cùng diệu chỉ.
- Kính bạch Thiền Sư, đây là lần đầu tiên con tham dự Thiền thất, nhưng đã cởi mở những điều thắc mắc trong bốn mươi năm qua. Con đã xuất gia hơn bốn mươi năm, tu tập theo pháp môn Mật tông, hôm nay, lần đầu tiên con tham dự Thiền thất do Thiền sư dẫn dắt một cách siêu việt, khiến tâm hồn con thiết tha vô cùng. Con cảm niệm trong sự dạy dỗ của Thiền Sư đối với tất cả chúng con, con cảm động khi thấy sức khỏe của Thiền Sư rất yếu, nhưng Từ bi vô lượng. Thiền Sư đã không nài cực nhọc giảng dạy cho chúng con.Vì thế, nên từ đây về sau, con nhiệt thành tham cứu Thiền, và luôn nỗ lực dụng công tham Thiền, đạt đến giác ngộ, để đền đáp tứ trọng ân, trong đó có ơn huệ của Thiền Sư chỉ dạy cho chúng con.
- Chúng con được yên tâm tu tập là nhờ quí Đàn na tín thí giúp đỡ, giờ đây, con xin đại diện toàn thể đại chúng trong Thiền đường, thành tâm cầu chúc Thiền Sư pháp thể khinh an, chúng sanh dị độ, để dẫn dắt chúng sanh đến bờ giải thoát.
- Chúng con xin lễ tạ Thiền Sư, ngưỡng mong Thiền Sư chứng minh cho toàn thể đại chúng trong Thiền đường.
Đáp từ của Sư Phụ:
- Lời khen tặng của Sư bà Huê Lâm, tôi tự cảm thấy rất hổ thẹn. Bởi vì xưng tôi là Thiền Sư thì thật ra tôi chưa đủ tư cách làm Thiền sư. Trong giải thất kỳ trước, tôi có kể sơ qua về quá trình ra hoằng pháp Tổ Sư Thiền, chưa kiến tánh mà ra hoằng pháp ấy là sự bất đắc dĩ, vì Hòa Thượng đã tuyên bố, nếu không thực hiện, e làm mất sĩ diện của Hòa Thượng. Nhưng đã bắt đầu hoằng pháp thì tôi phải tận bổn phận của tôi, biết bao nhiêu nói bấy nhiêu, giới Tỳ Kheo là có chức nguyện hoằng pháp. Ở trong Thiền tông cũng có lịch sử rằng: “Thầy chưa kiến tánh, trò đi tham học ở ngoài trở về, thầy biết đệ tử ấy đã kiến tánh, nên mời đệ tử lên tòa, lễ bái đệ tử làm thầy, sau đó thầy cũng được kiến tánh”, tôi cũng hy vọng như thế. Tôi thì chưa kiến tánh, nhưng tôi hy vọng quý vị mau kiến tánh hơn tôi, mặc dù tôi dạy tham thiền, nhưng nếu có vị nào kiến tánh rồi, tôi sẽ trở lại lạy thầy đó để tôi được kiến tánh.
142. HỎI: Núi Tu Di là chỉ cho Pháp thân và hạt cải là chỉ cho tứ đại, phải không?
- Ø ĐÁP: Không phải. Ấy là chỉ cho cái lớn nhỏ tương đối: Núi Tu Di là lớn, hạt cải thì nhỏ, lớn nhỏ tương đối là lọt vào tứ cú, chướng ngại cho sự dụng của Tự tánh. Kinh liễu nghĩa dạy chúng ta vô sở trụ, cũng là nghĩa lìa tứ cú, tức chẳng trụ cú thứ nhất, nhì, ba hoặc bốn.
143. HỎI: Trong thời mạt pháp này, áp dụng pháp tu nhĩ căn viên thông của Quán Thế Âm Bồ-tát, có được kiến tánh không?
- Ø ĐÁP: Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói đến nhĩ căn viên thông và giải thích rất rõ. Bây giờ nhiều người chấp lời nghịch ý, không hiểu Kinh Lăng Nghiêm, chỗ này ngài Hư Vân đã có nói rõ: “Chúng ta tham câu thoại đầu tức phản văn tự tánh, tức nhĩ căn viên thông rồi”. Nếu dùng lỗ tai đi nghe, lấy lỗ tai để phản văn thì vĩnh viễn phản văn không được, bất kể nghe trong nghe ngoài đều là nghe vọng, chẳng nghe động thì nghe tịnh, trong ngoài động tịnh đều là nhị.
Nay tôi sẽ dẫn chứng Kinh Lăng Nghiêm, vì dùng Kinh để chứng Kinh mới rõ. Kệ rằng :
Dùng nghe giữ lời Phật,
Đâu bằng nghe bản văn?
Nghe chẳng tự nhiên sanh,
Do tiếng có tên nghe.
Xoay nghe thoát khỏi tiếng,
Đặt tên NGHE cho ai?
Lấy nghe trì danh hiệu Phật, không bằng tự nghe cái nghe. Nhưng cái nghe đó chẳng phải tự nhiên sanh ra, là vì âm thanh mới lập cái tên “Nghe”, nay xoay cái nghe trở về thì thoát khỏi âm thanh, đã thoát khỏi âm thanh thì đặt cái tên “Nghe” cho ai? Tức không được gọi là nghe thì làm sao lại dùng lỗ tai để phản văn? Ấy là sai lầm. Nên ngài Hư Vân nói: “Chiếu cố thoại đầu tức phản văn tự tánh”. Nếu không tham thoại đầu, cứ lấy lỗ tai nghe thì phản văn không được.
Trong cuốn Tín Tâm Minh Tịch Nghĩa Giải, từ đầu đến cuối đều tỏ rõ không được chấp lời mà nghịch ý. Tự tánh chẳng phải do mắt thấy được, chẳng phải lỗ tai có thể nghe được, nếu dùng mắt thấy tai nghe, thì sao Kinh Kim Cang lại nói:
“Nhược dĩ sắc kiến ngã,
Dĩ âm thanh cầu ngã,
Thị nhơn hành tà đạo,
Bất nănh kiến Như Lai”.
Bất năng kiến Như Lai tức không thấy được Tự tánh Phật của mình, tức đi lầm đường, không đúng Chánh pháp, vĩnh viễn không được thấy Tự tánh Phật.
144. HỎI: Cái biết của lục căn trước khi dấy niệm phân biệt là chơn hay vọng?
- Ø ĐÁP: Cái biết của lục căn nếu lọt vào cái “Biết” là vọng. Biết là cú thứ nhất, không biết là cú thứ nhì, cho nên Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn”. Kiến văn giác tri hễ lập thì có chấp thật, tức căn bản của vô minh, biết là “Trước khi dấy niệm phân biệt” ấy đã là vọng rồi.
Chữ “Biết” này, như trong Kinh Niết Bàn, Phật gọi là thế lưu bố tưởng, thế gian đã lưu hành, gọi biết là biết; còn phàm phu chấp cái biết đó là thật, lọt vào trước tưởng, gọi là điên đảo tưởng. Cho nên, tri kiến lập tri, tức vô minh bổn, nếu tri kiến không kiến lập, không chấp là thật tức Niết-bàn. Hễ có biết là lọt vào điên đảo tưởng, mặc dù cái biết đó chưa khởi lên ý phân biệt.
145. HỎI: Ngồi Thiền mà niệm danh hiệu Phật, có được coi là tham thoại đầu không?
- Ø ĐÁP: Không được. Tham thoại đầu là phải khởi nghi tình, niệm danh hiệu Phật không phải là câu hỏi. Câu hỏi là dấu hỏi, nên niệm danh hiệu Phật chỉ là niệm Phật chứ không phải tham thiền. Phải có nghi tình mới là tham thiền, nếu không có nghi tình không được gọi là tham Thiền.
146. HỎI: Xin Sư Phụ giảng lại sự tích về ngài Văn Thù không thể làm cho cô gái xuất định.
- Ø ĐÁP: Thủ đoạn của chư Phật chư Tổ là muốn chúng ta khai ngộ kiến tánh mới được giải thoát. Ấy là muốn chúng ta nghi, nghi là không hiểu; không hiểu nhiều chừng nào tốt chừng nấy. Nếu giải thích ra rồi thì không nghi, nghi là nhân, ngộ là quả, không nhân thì không quả.
Ngài Văn Thù Bồ-tát là bậc cao, còn cao hơn Phật Thích Ca, lại thị hiện để giúp Phật hoằng pháp, còn Dõng Minh Bồ-tát là bậc thấp, muốn hiểu ý đó, phải tham đến kiến tánh mới được.
Thủ đoạn của Tổ rất nhiều, và rất vô lý. Ví như “Con trâu qua song cửa sổ, đầu và tứ chi đều qua được, tại sao cái đuôi không qua được?” Có nghĩa lý gì đâu? Ý của Tổ là muốn chúng ta nghi vào chỗ đó. Tại sao cái đuôi qua không được?
Thường thường, đối với thủ đoạn của Tổ sư, người ta hay lọt vào tình giải ý thức, như Tổ Hoài Nhượng độ Mã Tổ: Vì Mã Tổ chấp ngồi có thể thành Phật, Hoài Nhượng Thiền sư bèn đem mài cục gạch, Mã Tổ hỏi:
-“Mài gạch để làm gì?”
ĐÁP: “Mài gạch để làm gương.”
HỎI: “Cục gạch làm sao thành gương được?”
Hoài Nhượng Thiền sư hỏi lại: “Thế thì tọa thiền làm sao thành Phật ư?”
-“Vậy thì phải làm sao?”
ĐÁP: “Ví như bò kéo xe, xe không chạy, phải đánh xe hay đánh bò?”
Theo lẽ thường tình thì dĩ nhiên là phải đánh bò mới đúng, nhưng nếu hiểu theo như vậy là sai lầm, ấy là tình giải, là theo ý thức phân biệt, đâu phải tự tánh. Chỉ là vọng thôi. Mã Tổ nếu hiểu như thế thì chẳng thể kiến tánh vậy. Cho nên, chỉ cho tâm nghi chứ không cho tâm đi tìm hiểu, tâm tìm hiểu là hồ nghi chứ chẳng phải chánh nghi.
147. HỎI: Xin hỏi trong đạo tràng này có ai không kẹt vào chấp lời nghịch ý hay không?
- Ø ĐÁP: Nay tôi hỏi thầy trước: Thầy có lọt vào chỗ này hay không? Nếu có người nào ôm chặt câu thoại đầu tham tới nghi tình thành khối thì người ấy mới thoát khỏi được. Nếu chưa đến chỗ đó, vẫn thoát không khỏi, vẫn còn có cái chấp. Đừng nói là trong đạo tràng này, chính tôi vẫn còn. Cho nên, nếu muốn biết qua ai là người không lọt vào cái chấp này thì phải hỏi từng người một, như mỗi lần cuối thất, lúc giải thất, người chủ thất vẫn phải hỏi từng người một mới biết, mặc dù là Thiền sư kiến tánh như Lai Quả Thiền sư, Hư Vân Thiền sư v.v…
148. HỎI: Ai tạo ra vũ trụ này?
- Ø ĐÁP: Ý nói ở trong vũ trụ có một vị cao nhất ư? Ấy là tư tưởng của ngoại đạo. Theo Phật pháp thì chẳng có ai là cao nhất, tất cả chúng sanh đều là Phật, chứ chẳng phải là Phật có cao hơn. Tại ông có tư tưởng chấp thật mới đưa ra câu hỏi này. Nếu vũ trụ đã chẳng phải thật, thì có ai thật tạo ra? Nên Phật nói là vô thỉ, tức không có bắt đầu.
Nếu có người thật tạo ra vũ trụ, thì thử hỏi người ấy ai tạo ra? Nếu cho là tự nhiên, thì pháp nào cũng phải bình đẳng, người nào cũng tự nhiên được, đâu thể chỉ một người đó được tự nhiên, ngoài ra chẳng ai được?
Phật pháp bình đẳng, nếu một người tự nhiên được thì mọi người đều tự nhiên được; đời xưa tự nhiên được đời nay cũng tự nhiên được.
Đối với vũ trụ vạn vật, Phật pháp nói là “Nhất thiết duy tâm tạo”, do vọng tâm hoạt động mới biến hiện ra, chứ không phải có một vị nào cao nhất để tạo ra. Bây giờ thân của ông rõ ràng do cha mẹ sanh, và cha mẹ của ông cũng có cha mẹ sanh, rồi cha mẹ đầu tiên có không? Giả sử có, từ vô lượng vô biên kiếp có một đôi nam nữ, là cha mẹ đầu tiên của ông, thì tôi xin hỏi: Cha mẹ đầu tiên đó có cha mẹ không? Nếu ở trên còn cha mẹ thì không được gọi là cha mẹ đầu tiên, nếu không có thì hai vị đó từ đâu sanh? Nếu nói là do Thượng Đế tạo ra, ai tạo ra Thượng đế? Cho nên tìm mãi vẫn không tìm ra sự bắt đầu, nên Phật nói là “Vô thỉ”. Nếu có ai chấp thật phải có người tạo ra, ấy là ngoại đạo, chẳng phải Phật giáo.
149. HỎI: Vạn pháp duy thức như thế nào?
- Ø ĐÁP: Nói về Duy thức, Phật pháp cũng có tông phái Duy Thức. Như tôi đã nói “Nhất thiết duy tâm tạo”, duy tâm thì duy thức. Bốn câu kệ ở Kinh Hoa Nghiêm:
Nhược nhơn dục liễu tri,
Tam thế nhất thiết Phật,
Ưng quán pháp giới tánh,
Nhất thiết duy tâm tạo.
Phật cũng là duy tâm tạo, vũ trụ pháp giới, chẳng có cái nào không phải duy tâm tạo. Nói do ý thức biến hiện tức duy tâm tạo, bất kể là do độc đầu ý thức biến hiện nhắm mắt chiêm bao, hay do đồng thời ý thức biến hiện mở mắt chiêm bao, đều là do ý thức biến hiện. Do tâm tạo thì chẳng thật, hễ chấp thật là sai lầm, ngoại đạo chấp nhắm mắt chiêm bao là giả, cho mở mắt chiêm bao là thật, cũng là sai lầm.
150. HỎI: Trong Kinh Kim Cang có nói: “Tu-đà-hoàn còn biết mình chứng quả Tu-đà-hoàn thì chẳng phải Tu-đà-hoàn”, như vậy, trong Kinh Phật còn thừa nhận có quả vị để chứng đắc, thế có trái với tinh thần Thiền tông không?
- Ø ĐÁP: Tôi đã nói: Người tham thiền mà tự nói “Ta tham thiền” thì không phải người tham thiền. Tham thiền sẽ được ngộ, nhưng nếu có tâm muốn cầu ngộ, chờ ngộ lại chẳng phải rồi, vĩnh viễn không được ngộ.
Tu-đà-hoàn là Sơ quả, còn có cái chấp là chưa được chứng. Ví như từ Chợ lớn đi Sài gòn, hễ đi thì sẽ đến, chứ đâu cần dọc dường cứ phải la lên rằng “Ta đi Sài Gòn, ta đi Sài gòn” đâu!
Trung Phong Thiền sư ở trong Trung Phong Pháp Ngữ khai thị rằng: “Người tham thiền đề câu thoại đầu khởi nghi tình, biết câu thoại đầu thuần thục là không được, biết câu thoại đầu không thuần thục cũng không được”, biết có chứng quả Tu-đà-hoàn hay chưa chứng quả đều không được, biết và không biết là đối đãi, là lọt vào tứ cú, là vọng; biết là vọng biết, không biết là vọng không biết, đều là vọng.
Trong Phật pháp phải phá ngã chấp, bất cứ Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, đều phải phá ngã chấp, chứ chẳng phải bỏ bên đây mà chấp qua bên kia, ấy là biên kiến, cũng là lọt vào năm thứ ác kiến.
151. HỎI: Theo Thiền tông, chưa phá được Sơ quan mà khối nghi đã bùng vỡ, thì làm sao nghi tiếp để tiến đến Trùng quan?
- Ø ĐÁP: Đến Sơ quan phá được bổn tham thì bổn tham mất đi, nhưng theo công án của Tổ, có chỗ thấu được và có chỗ chưa thấu được, chỗ chưa thấu được vẫn phải nghi nữa, bởi vì nghi căn chưa cắt dứt, còn phải nghi tiếp cho đến triệt ngộ.
152. HỎI: A-la-hán có kiến tánh không? Nếu không, làm sao xuất luân hồi? Vì còn căn bản vô minh. Nếu có, Tiểu thừa không có nghi tình, làm sao kiến tánh? Vì như lời thầy nói “Có nghi mới có ngộ, không nghi thì không ngộ”.
- Ø ĐÁP: Theo lời của Tổ, A-la-hán chưa phá được căn bản vô minh, chưa kiến tánh, nhưng vì phá được nhơn ngã chấp, nên được ra khỏi sanh tử luân hồi. Sanh tử có hai thứ: Phần đoạn sanh tử và Biến dịch sanh tử. A-la-hán phá được ngã chấp, dứt được phần đoạn sanh tử, nhưng vì chưa kiến tánh, chưa phá được pháp chấp, nên chưa dứt Biến dịch sanh tử, cần phải tiến tu thêm. Do chấp quả A-la-hán là thật, tưởng đã đến Cứu cánh Niết-bàn, nên bị Phật quở là ngu si.
153. HỎI: Theo Bát Nhã Tâm Kinh, quét tri kiến Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát cho đến Phật. Vậy nếu đã vào hàng Thanh-văn, đã vào hàng Thánh, sao chưa đạt đến trí huệ Bát-nhã mà còn kẹt vào tri kiến?
- Ø ĐÁP: Lời Phật ở Bát Nhã Tâm Kinh là muốn quét sự chấp của chúng ta, không được chấp cái nào là thật, tức vô sở trụ; không được trụ ở bất cứ nơi nào, trụ nơi tri kiến phàm phu cũng không được, trụ nơi tri kiến thừa Thanh-văn, thừa Duyên-giác, Đại thừa Bồ-tát, kể cả tri kiến Phật cũng không được. Lời Tổ có nói: “Hễ trụ nơi tri kiến Phật thì bị Phật trói buộc, trụ nơi Bồ-tát thì bị Bồ-tát trói buộc, chẳng phải là cái nghĩa Vô sở trụ”.
Nghĩa Vô sở trụ là hoạt bát vạn năng, nếu có sở trụ thì tánh hoạt bát vạn năng bị mất. Hễ có trụ là chưa có tư cách thành Phật, nên tri kiến Phật cũng phải quét.
“Đại tâm vô y”, vô y tức vô trụ. Nên Bát Nhã Tâm Kinh quét sạch tất cả chấp, phá tất cả chấp; cao nhất là chấp Phật, cũng không được. Đến chỗ “Đại tâm vô y” thì sự dụng hoạt bát vạn năng mới phát huy khắp hư không pháp giới.
Lời của Phật, của Tổ, tất cả Kinh Đại thừa liễu nghĩa đều là để trị bệnh chấp của chúng ta. Nhưng nói “Chấp thật” chẳng phải là không chấp cái Có mà lại chấp cái Không; chẳng chấp cái Chơn lại chấp cái giả, nếu chấp không, chấp giả, chấp vọng thì bệnh chấp ấy càng nặng hơn, càng khó trị, chấp huyễn cũng vậy. Hễ chấp huyễn trụ nơi huyễn, chấp vọng trụ nơi vọng, đều là chấp cả. Tri kiến Phật còn chấp không được, huống là chấp huyễn chấp vọng! Chấp vào chỗ nào là chướng ngại chỗ đó.
154. HỎI: Bài kệ của ngài Trung Phong Thiền sư tặng cho Thái tử nước Hàn như thế nào?
Đời người giống như huyễn trung huyễn
Trần thế gặp nhau ai là ai?
Cha mẹ chưa sanh ai là ta?
Một hơi không vào ta là ai?
Đời người cũng như huyễn ở trong huyễn, huyễn đã chẳng phải thật rồi, lại huyễn ở trong huyễn, bây giờ ở ngoài thế gian gặp nhau, tự mình còn chưa biết mình, biết ai là ai? Chỉ biết việc ở ngoài mà chẳng biết mình thì làm chủ cho mình chẳng được, chẳng làm chủ cho mình được thì chẳng thể tự do tự tại, phải luôn chịu khổ. Tấm thân này khi cha mẹ đã sanh là ta, lúc cha mẹ chưa sanh ai là ta? Một hơi thở chẳng hít vào thì ta lại là ai? Thai trâu bụng ngựa cũng không biết, làm chó làm mèo cũng không biết.
Hiện nay chúng ta đang khỏe mạnh, nếu không y theo lời của Tổ, của Phật để tham cứu, chỉ biết ở ngoài, chỉ biết người khác mà chẳng biết mình là cái gì, khổ sẽ còn mãi mãi, không biết chừng nào hết.
155. HỎI: Khi tham thiền, vọng tưởng nổi nhiều phải làm sao?
- Ø ĐÁP: Không cần để ý đến vọng tưởng, vọng tưởng nổi lên bao nhiêu mặc kệ, đừng biết tới, chỉ chú ý câu thoại đầu, hỏi thầm trong bụng, có hỏi thì có đáp, hỏi không hiểu, đáp không ra, cứ hỏi tới mãi, khi thoại đầu quen thuộc rồi vọng tưởng tự nhiên nổi không lên. Vì nghi tình là cây chổi automatic, khỏi cần tác ý muốn quét, nó tự động quét sạch.
156. HỎI: Tại sao nói “Sanh tử là việc lớn”?
- Ø ĐÁP: Trung Phong Pháp Ngữ nói: “Phải xem sanh tử là việc lớn”, trong Thiền Thất Khai Thị Lục, ngài Lai Quả nói: “Tự mình có bệnh lớn mà không hay, cứ cho rằng mỗi ngày ta ăn ba tô cơm thì làm sao có bệnh ư? Ấy là bệnh gì? Là bệnh sanh tử vậy”. Bệnh sanh tử này từ vô thỉ đến bây giờ, cứ bệnh hoài, chưa dứt. Tại sao? Nay chúng ta được cái thân người này, không biết trải qua bao nhiêu kiếp trong thai trâu bụng ngựa, con chó con heo … mới được thân người, nếu mất thân này rồi, không biết lại phải trải qua bao nhiêu kiếp mới được trở lại làm người nữa. Nên phải biết đến bệnh sanh tử và rất cần trị cho hết, mới được tự do tự tại, không bị sanh tử trói buộc, khiến mình lại phải chịu khổ.
THAM THOẠI ĐẦU LÀ GIẢI QUYẾT VIỆC SANH TỬ. Lai Quả Thiền sư nói: “Bệnh sanh tử chỉ có thuốc thoại đầu mới trị được”, nay chúng ta tham thoại đầu là trúng thuốc trị bệnh sanh tử. Đời xưa ngộ đạo được thì đời nay cũng ngộ đạo được, xưa với nay vốn chẳng khác, khác là do cái chấp tâm phân biệt của mình.
Hồi thời Phật Thích Ca, khi Ngài đưa lên một nhánh bông mà chẳng nói gì cả, trong hội có hơn triệu người, chỉ một mình Ca-diếp ngộ được, ngoài ra một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo, chỉ chứng quả A-la-hán, là đi ở nữa đường, chưa về đến nhà. Còn ở Trung Quốc, dưới Mã Tổ có một trăm ba mươi chín người kiến tánh, thế thì chứng tỏ xưa với nay chẳng khác. Nói mạt pháp chuyển thành Chánh pháp, hạ căn chuyển thành thượng căn, ấy là do quyết tâm của mình, chứ chẳng phải do đời xưa hay đời nay. Đời nay ít người ngộ đạo vì đuổi theo vật chất, ham hưởng thụ vật chất, chứ chẳng phải người đời nay không bằng người đời xưa.
157. HỎI: Thế nào là “Tức tâm là Phật”?
- Ø ĐÁP: Lời nói của Phật, của Tổ chỉ là phương tiện tạm thời đối với đương cơ lúc đó, nên Kinh Lăng Nghiêm nói: “Phàm hữu ngôn thuyết, giai phi thật nghĩa”. Trong Kinh Lăng Già, Phật tự nói: “Lời nói của ta chỉ là ngôn ngữ vọng tưởng, đừng có chấp thật”, tức bệnh của chúng sanh là bệnh giả, lời nói của Phật là thuốc giả, lấy thuốc giả để trị bệnh giả, bệnh giả hết thuốc giả cũng vô dụng, chứ chẳng phải có thuốc thật.
Nói đến “Tức tâm là Phật”, trong Thiền tông có một công án:
Ngài Mã Tổ là một vị Tổ rất danh tiếng, dưới ngài có một trăm ba mươi chín người kiến tánh, từ đời Phật Thích Ca đến nay chưa ai bằng. Có người hỏi Mã Tổ:
- “Tại sao nói tức tâm là Phật?”
- “Tại muốn gạt con nít nín khóc”
- HỎI: “Sau khi nín thế nào?”
- “Chẳng phải tâm chẳng phải Phật”.
Nên biết, ấy chỉ là phương tiện tạm thời để gạt con nít nín khóc thôi. Tổ Sư Thiền chỉ chú trọng thực hành, rất kỵ lý luận, chỉ muốn người tham thiền thực hành đến ngộ, lý luận là sở tri chướng, cho nên không cho tâm đi tìm hiểu; muốn hiểu thiền hiểu đạo cũng còn không cho, nói gì đến lý!
158. HỎI: “Ngoài bặt các duyên, tâm như tường vách”, có phải là công phu không?
- Ø ĐÁP: Nói: Ngoài bặt các duyên, làm sao bặt được? Nay người đời cứ hễ niệm Phật thì lấy câu danh hiệu Phật trừ vọng tưởng, trì chú thì lấy câu chú để trừ vọng tưởng, quán tưởng lấy cái sở quán trừ vọng tưởng, ấy là sai, nhưng tham câu thoại đầu chẳng phải vậy. Tham thoại đầu không được trừ vọng tưởng, không được buông bỏ vọng tưởng, không được đè nén vọng tưởng. Tại sao? Vì nếu lấy đó làm chánh, mặc dù không có vọng tưởng, vẫn là bệnh, những người khác cho không có vọng tưởng là tốt, nhưng ở Tổ Sư Thiền thì vẫn là thiền bệnh.
Lại, khỏi cần trừ vọng tưởng, vọng tưởng nổi lên bao nhiêu mặc kệ, chỉ đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình, nghi tình là cây chổi tự động quét; không những có vọng tưởng cũng quét, không có vọng tưởng cũng quét. Như tôi đã nói ở trên, cái chánh là trị bệnh sanh tử chứ không phải trừ vọng tưởng, tại chấp vọng tưởng là thật, nên mới có sanh tử.
159. HỎI: Xin Sư Phụ giải thích những việc thông thường trong Thiền thất.
- Ø ĐÁP: Nói “Thiền thất” là tham thiền liên tục trong bảy ngày. Nhiều người tưởng “Thất” là căn nhà, ấy là sai. Cũng như nhiều người Việt cho “Bế quan” là nhập thất, kỳ thật, ý nghĩa hai chữ “Nhập thất” ở tiếng Hán là: Vị bổn sư cho phép mấy đệ tử sắp kiến tánh được tự do vào Trượng thất để tham hỏi, tức trong cả ngàn người đệ tử, chỉ có vài chục người được quyền tự do ra vào phòng của Hòa thượng Trụ trì để tham vấn, nên gọi là “Đệ tử nhập thất”, chứ không phải đi vào một căn phòng để bế quan.
Ở chốn tòng lâm hay Thiền đường Trung Quốc, chỉ có tu sĩ, không có người tại gia, khi cử hành Thiền thất, cũng như đi vào trường thi, phải thi đậu kiến tánh chứ không phải để tập tham thiền. Bây giờ ở đây cử hành Thiền thất là để cho tập tham, cách ngồi tự do, không nhất thiết phải ngồi kiết già, sở dĩ ngồi vì đi mỏi thì ngồi, ngồi mỏi thì đi, chứ không phải cần sự ngồi.
Khi xưa không có đồng hồ, người ta đốt lên một cây nhang, ngồi hết cây nhang thì đi, đi hết cây nhang thì ngồi, nên gọi tọa hương và đi hương, bảo hương thì phải chạy như bay. Trong thiền đường có người tuần hương, hễ ai nói chuyện, cười giỡn, là phạm quy củ, bị đánh hương bảng. Lai Quả Thiền sư lúc mới vào Thiền đường, một ngày bị đánh bốn trăm hương bảng, nhưng Ngài hai mươi tám tuổi đã kiến tánh.