Thượng tọa Thubten Zopa Rinpoche, là
đồng sáng lập viên "Hội bảo vệ truyền thống Phật giáo Ðại thừa" (năm
1975, văn phòng trung ương đặt tại bang California, Hoa Kỳ). Hiện tổ
chức này có gần một trăm chi nhánh trên khắp các châu lục. Vừa qua, một
tu viện tại Nepal đã cử hành lễ "thụ phong cho một chú bé bốn tuổi mà
giới Phật giáo Tây Tạng xem đây là người tái sinh của cụ bà Amala (mẫu
thân của Thượng tọa Zopa Rinpoche). Dưới đây là bài viết của Sư cô
Robina Courtin, đúc kết lại những gì đã nghe thấy về cuộc "hành trình
chuyển tiếp" khá lý thú này.
"Tôi đã tìm thấy được mẹ tôi",
Ngawang Samten, chị của Thượng tọa Zopa, reo lên một cách vui sướng khi
vừa gặp lại cô Merry Colony vào tháng 8 năm 1993, sau hai năm vắng mặt
từ ngôi làng bé nhỏ nằm trong vùng núi đá lởm chởm thuộc vùng Khumbu,
nước Nepal.
Cụ bà Amala, bà thân sinh của Thượng tọa Zopa
Rinpoche, được rất nhiều người biết đến, đã qua đời vào đầu năm 1991.
Merry nghĩ rằng chắc Ngawang Samten muốn ám chỉ một điều gì đó có liên
quan đến sự tái sinh của cụ Amala.
Merry rất thân với cụ Amala
và Ngawang Samten trong dịp cô đến tu thiền trong một hang động gần đó
và thường đến thăm họ ở chùa Lawudo. Cả hai đều là nữ tu, công việc
chính của họ là chăm sóc các hang động và ngôi chùa này. Họ đến đây từ
Thami, Tây Tạng.
"Gia đình tôi rất nghèo", Ngawang Samten nhớ
lại, "bố tôi qua đời lúc em trai tôi Sangye còn trong bụng mẹ. Mẹ tôi
suốt ngày đi chặt củi đổi lấy gạo để nuôi cả gia đình. Bà chỉ kiếm vừa
đủ để nuôi anh em chúng tôi và bà thường lượm những mảnh vải người ta
vứt trong thùng rác để may áo quần cho chúng tôi".
"Và bà
thường đến biên giới Tây Tạng (hai ngày đi bộ) mua muối đem về bán cho
người trong làng - Merry nói - Bà cụ là một người nhỏ nhắn nhưng rất
khỏe mạnh, bà làm mất đi nhiều ngón tay của mình khi chặt củi. Giống
như nhiều người ở miền núi, bà cụ không biết chữ, bà cũng không biết
nhiều về giáo lý. Nhưng bà tin tưởng Ðức Bồ tát Quán Thế AÂm và siêng
năng thọ trì câu thần chú : "OM MANI PADME HUM" trong mọi lúc, mọi
thời. Bà cụ rất tận tụy với các tăng ni. Mỗi ngày bà đều chăm sóc hang
động, quét dọn, cúng dường hương đèn lên các bàn thờ".
Gần
đây, Thượng tọa Zopa Rinpoche cũng cho biết rằng: "Sau khi làm xong mọi
việc trong chùa mỗi ngày, bà cụ đều đến đảnh lễ Phật và cầu nguyện cho
tôi. Bà cụ nói là bà cụ cầu nguyện cho tôi ba lần trong một ngày, sáng,
trưa và buổi tối".
"Mẹ cầu nguyện những gì ?", tôi hỏi bà
cụ, "Bà nói rằng bà chỉ cầu mong chư Phật gia hộ cho tôi vượt qua mọi
chướng ngại trên con đường tu học của mình".
Vào tháng 12 năm
1990, cụ Amala muốn đi thăm Ð?c Dalai Lama (ở Ấn Ðộ) trước khi cụ qua
đời. Già và yếu, nhưng bà vẫn cố gắng băng núi đèo để đến Kathmandu, và
rồi đến tỉnh Sarnath (Bắc Ấn), đi cùng với bà có cậu út Sangye và
Ngawang Samten.
"Ðó là ngày trăng tròn tháng giêng năm 1991",
Sangye nhớ lại, "cũng là ngày cuối cùng của khóa tu Mật tông
Kalachakra. Suốt ngày hôm đó cụ Amala, chị Ngawang và tôi đã dự lễ điểm
đạo của Ðức Dalai Lama. Sau đó chúng tôi trở lại túp lều và cụ Amala
bảo: "Mẹ muốn nghỉ ngơi, đừng quấy rầy mẹ". Chúng tôi linh cảm có một
điều gì đó sắp xảy ra, chúng tôi ngồi quanh giường của cụ, khoảng mấy
phút sau, cụ trở mình nghiêng bên phải và rồi mất tại đó. Khuôn mặt bà
như đang ngủ".
"Bà cụ vẫn nằm trong tư thế "kiết tường" như
vậy trong ba ngày, nét mặt đẹp hơn, sáng hơn. Chúng tôi không chạm đến
thi thể của cụ cho đến chiều ngày thứ ba, nét mặt vẫn không thay đổi.
Chúng tôi tiến hành tang lễ và hỏa táng sau đó. Có hơn 200 Tăng Ni và
Phật tử đến dự.
Rõ ràng vào ngày cụ Amala qua đời là ngày
trăng tròn, người dân trong vùng Lawudo (ở Nepal) nhìn thấy một con
chim ưng lông trắng bay lượn ba vòng ở trong vùng rồi sau đó bay về
hướng đông Tây Tạng. Sau này họ nói cho tôi về điều đó, họ nói là họ
rất ngạc nhiên".
Trên đây là toàn bộ câu chuyện mà Ngawang đã kể cho cô Merry nghe, khi cô đến thăm Lawudo vào tháng 8 năm 1993.
Vào
đầu tháng 7 năm đó (1993), Ngawang Samten hay tin một người bạn láng
giềng của chị là Lhakpa bị tai nạn, vì thế chị quyết định đi thăm cô
ta. Ngawang không gặp cô ta từ khi cụ Amala qua đời. Gia đình cô dời về
ở một ngôi làng Genukpa cách chùa Lawudo khoảng mười lăm phút đi bộ.
Ðó
không phải là nơi gần với Lawudo, nên Ngawang Samten và Lhakpa ít khi
gặp nhau. Lhakpa bị thương ở chân nhưng không nặng lắm, cô ta rất mừng
khi gặp lại Ngawang Samten.
Lhakpa có bốn đứa con, đứa nhỏ
nhất là một cậu bé được sanh sau khi cụ Amala mất vài tháng ở Ấn Ðộ.
Lhakpa bắt đầu nói với Samten về đứa con trai út của mình. Nó là một
đứa trẻ thông minh lạ thường, cô ta nói, từ khi nó tập nói lúc 2 tuổi,
chú bé thường nhắc đến chùa Lawudo, một ngôi chùa mà chú chưa từng biết
đến bao giờ. Vì thế, điều này làm cho chị và cả gia đình rất kinh ngạc.
Và
khi Ngawang Samten gặp riêng chú bé, chú dường như nhận ra chị, và chú
yêu cầu chị đưa chú đi thăm chùa Lawudo. Chú bé là một đứa trẻ đẹp và
khỏe mạnh, chú bày tỏ sự quen thuộc đối với Lawudo - nhắc đến tên của
ba con bò chẳng hạn. Và chú tiếp tục nói là chú muốn đi đến đó: "Ðó là
nơi cháu đã từng sống", chú nói. Ngawang Samten rất ngạc nhiên, chị bắt
đầu đến thăm chú bé thường xuyên hơn và luôn luôn tìm thấy những điều
tương tự. Chú yêu cầu chị: "Hãy đưa cháu về Lawudo đi".
Một
điều đáng chú ý hơn, là chú thường nhắc đến Sangye, Thượng tọa Zopa
Rinpoche và ngôi tu viện Kopan của ngài, trong khi tu viện đó ở dưới
thung lũng Kathmandu. "Cháu tự hỏi không biết khi nào Thượng tọa và
Sangye sẽ đến thăm cháu", chú nói. Ngawang Samten đi từ ngạc nhiên này
đến ngạc nhiên khác khi chú đưa ra những thông tin mới hơn: "Con đường
đi đến tu viện Kopan rất xấu, có lẽ họ đang bận rộn sửa sang lại nó".
Rõ ràng đó là sự thật. Chú bé cũng thường bày tỏ ý định muốn đến Kopan
một mình.
Một ý tưởng nảy sinh, phải chăng chú bé này là một
bằng chứng tái sinh của mẹ chị? Ý tưởng đó đã ngự trị và trở nên rối
bời trong đầu óc của Ngawang Samten. Chị nghĩ rằng mình không thể ngạc
nhiên và bỏ qua cơ hội này; chị quyết định trắc nghiệm chú bé.
Cuối
cùng, chị đưa bé về thăm chùa Lawudo. "Ngay khi bước vào phòng ăn", chị
nhớ lại, "Chú bé bắt đầu mô tả nhà bếp, những băng ghế, lò sưởi; điều
đáng chú ý là chú chạy lên chánh điện và đi kinh hành mấy vòng - giống
như cụ Amala đã từng làm. Dù ở đây chú hay bị vấp và té, bởi vì chú nhỏ
quá".
Ngawang Samten cùng kiểm tra với Hòa thượng Wangchuk,
một người địa phương lừng danh trong việc quan sát các trường hợp như
thế, và ngài đã xác nhận chú bé này đúng là người tái sinh của cụ Amala.
Ngawang
Samten cũng viết thư cho Hòa thượng Trulshig và Thượng tọa Nyingma
thuộc tu viện Thubten Choeling ở Jumberi. Hai ngài đã trả lời thư,
chứng nhận rằng chú là một hình dạng khác của cụ Amala và khuyên chị
phải làm lễ cầu an cho chú cũng như chăm sóc chú một cách cẩn thận.
Ngài Trulshig đã đặt tên cho chú là Ngawang Jigme.
Ngawang Samten rất sung sướng. Chị quyết định tổ chức lễ cầu an cho Ngawang Jigme, mời tăng ni và bà con trong làng đến dự.
Trong
buổi lễ ở chùa Lawudo, chú bé lại một lần nữa làm cho mọi người phải
ngạc nhiên bởi việc đi kinh hành ba vòng trong chánh điện và sau đó chú
lễ Phật giống như cụ Amala đã làm trước đây.
Ngawang Samten
may cho chú mấy bộ đồ và trong số đó có cả chiếc mũ len của cụ Amala.
Giật lấy chiếc mũ một cách vui mừng, chú reo lên "đây là cái mũ của
cháu", và lập tức chú nhận ra một số nút áo cũ mà cụ Amala đã để dành
trước kia, nay được khâu vào chiếc áo ấm mới: "Cái nút này của cháu",
chú la lên một cách sung sướng.
Sangye đã nhớ lại trong buổi
lễ hôm đó mọi người đều tặng khăn trắng Khatas cho chú, chú đều biếu
lại họ theo truyền thống như một cử chỉ ban phước. Ðiều này không có ai
dạy cho chú biết trước đó.
Kể từ hôm đó, chú thường xuyên đến
chùa Lawudo, và chú tiếp tục làm cho mọi người phải chú ý về sự hiển lộ
trí nhớ của mình. Chú chỉ ra mọi việc trong chùa, trong nhà bếp, trong
hang động. Chú biết rõ những thứ đó là gì và dùng để làm gì. Chú cũng
hỏi thăm các đồ vật thuộc về cụ Amala mà chú không thấy ở chỗ cũ.
"Cây
đèn của cháu ở đâu". Chú hỏi. Cụ Amala gìn giữ các đồ dùng riêng trên
một chiếc kệ trong phòng ngủ của cụ: Một cái kính đeo mắt, một bánh xe
pháp luân nhỏ (dùng để cầu nguyện), một xâu chuỗi, một cây đèn dầu...
Chú
bé dường như quyết định tìm các đồ vật và chú tỏ ra bực mình khi không
tìm thấy chúng. Cầm tay Ngawang Samten, chú chỉ về phía chiếc kệ: "Cháu
muốn lấy cây đèn của cháu về nhà, cháu sẽ mang nó trở lại vào ngày mai".
"Chú
bé rất kỳ lạ", Sangye cảm nhận, "và mọi người gặp chú cũng đều cảm thấy
như thế". Cách cư xử của chú quá lạ lùng so với các đứa trẻ khác. Chú
hành xử và nói năng như người lớn một cách tự nhiên. Về trí nhớ của chú
cũng hoàn toàn chính xác.
Vào tháng 5 năm 1994, bố mẹ của
Ngawang Jigme cảm thấy đã đến lúc đưa đứa con của họ đến tu viện Kopan.
Buổi lễ thụ phong được tổ chức để chính thức xác nhận chú là tái sinh
của cụ Amala, một nữ tu người Tây Tạng, bởi 250 Tăng ni và Phật tử.
Cuối
cùng, chú cũng đã bước vào tu viện như là một tu sĩ thực thụ và chú sẽ
được giáo dục theo một phương pháp dành riêng cho người được xem là tái
sinh. Tu viện và các bậc cao đức sẽ tạo cho chú có cơ hội để tiếp tục
công việc tu tập, hóa giải nghiệp lực, phát triển tâm linh và hoằng
pháp lợi sinh sau này.
Khi Ðức Dala Lama lần đầu tiên gặp chú
bé tái sinh người Tây Ban Nha, Tenxil Osel Rinpoche (1), và Ngài đã
thừa nhận chú ấy là hóa thân của cố Lama Thubten Yeshe. Ngài nói: "Tất
nhiên, khi chú lớn hơn một chút, tự chú sẽ để lộ ra những chứng cứ cho
người ta biết chú thật sự là ai". Và trường hợp của Ngawang Jigme ở đây
cũng tương tự như vậy.
Nhưng nếu bằng chứng đã có giá trị bề
mặt thì chú là một minh chứng hùng hồn nhất về công hiệu của luật nhân
quả. Ðó là suốt một quãng đời cống hiến và tận tụy mà cụ Amala đã đặt
trọng niềm chánh tín của mình cho Chánh pháp để cuối cùng đổi lấy một
kết quả thấy rõ, đó chính là sự "quay lại" của mình trong một dáng hình
nam tử mà trước đây cụ đã hằng mong ước.
* Ghi chú:
1.
Tenzil Osel, sinh ngày 12/02/1985 tại Tây Ban Nha, được xem là hậu
thân của cố Lama Thubten Yeshe (một pháp sư nổi tiếng của Phật giáo
Tây Tạng ở phương Tây, là thầy của Thượng tọa Zopa Rinpoche). Hiện
tại Lama Tenzil Osel 2 tuổi đang sống và tu học ở tu viện Sera, nước Ấn
Ðộ.