Học Phật cần phải biết nhẫn nại, từ từ mà
hiểu thì mới có thể thâm nhập vào Phật pháp. Một câu hỏi của em về lục đạo luân
hồi đã liên quan đến những cảnh giới rộng lớn, anh muốn tóm gọn một cách tổng
quát, nhưng đã trải dài qua bao nhiêu trang giấy rồi mà chưa giải quyết xong.
Thấy được điều này nên ngay từ đầu anh đã nói, đừng bao giờ nghĩ rằng những
thắc mắc của mình là nhỏ nhặt. Nhỏ là vì mình chưa thấy, chứ nếu thấy được thì
cái nhỏ đó có thể sẽ lớn bao trùm cả hư không pháp giới. Một là tất cả, tất cả
là một. Hiểu được pháp Phật thì từ một điểm có thể thấy đến cảnh giới vô lượng
vô biên, trong vô lượng vô biên cảnh giới ta có thể thâu tóm lại thành một điểm.
Càng hiểu càng sâu, càng thấy càng rộng. Phật pháp thật là thậm thâm vi diệu,
nếu hời hợt đứng bên ngoài nhìn vào thì khó liễu ngộ được chân tướng vậy!
Đối với đạo pháp quá sức thâm sâu cao diệu, muốn hiểu phải lấy cái tâm thanh
tịnh mà hiểu, đừng nên chú trọng quá nhiều vào hình thức. Anh thường nói rằng,
người thích nghiên cứu có tỉ lệ thành tựu thấp hơn người chí thành tu tập.
Nghiên cứu nhiều thì cái tâm của mình thường chạy ra ngoài để lượm lặt những
thứ kiến thức hữu lậu vô thường của thế gian, đó là sống theo vọng tâm, hay gọi
là “Ngoại đạo”. Người chí thành tu tập thì họ chuyên nhất vào một chuyện chính
yếu để thoát ly sanh tử luân hồi, họ lo thúc liễm thân tâm, làm cho tâm định
lại, có sức sống nội tâm mạnh, đó là “Nội đạo”. Phật giáo là nội đạo hay tâm
đạo chứ không phải là ngoại đạo. Nói cụ thể, người muốn học Phật thì nên dành
nhiều thời giờ niệm Phật để vãng sanh, đây là việc chính. Thêm nữa, hãy lo bố
thí giúp người, ăn ở hiền lành, khuyên người niệm Phật… làm trợ hạnh để tô bồi
có công đức vãng sanh. Người thực sự tu hành thì phải lấy chuyện chính làm
chính, người chưa biết tu hành thì thường lấy cái phụ làm chính.
Chính là sao? Vãng sanh thành
Phật. Phụ là sao? Tự tư tự lợi, danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần,
tham sân si mạn.
Đường em,
Có nhiều người nghĩ rằng, đời còn đẹp quá,
hãy lo hưởng thụ vật chất được ngày nào sướng ngày đó chứ dại gì tu hành cho
khổ! Họ lo hưởng thụ, lăn vào nhiều thú giải trí và cho đó là vui sướng, còn
việc gìn giữ giới hạnh, ăn ở hiền lành, niệm Phật tu hành là khổ. Đây chỉ là
một quan niệm sống rất bình thường chứ không phải là một lý tưởng đặc biệt hay
cao thượng gì đâu!
Nghĩ rằng hưởng thụ để cho sướng, nhưng thực sự có hưởng được sự vui sướng hay
không là một chuyện khác?! Người đam mê phim tàu thì suốt ngày thích xem phim
tàu, người đam mê hội họa thì thích thú vẽ tranh. Người mê coi phim mà bắt họ
xem tranh thì giống như bị phạt, người thích hội họa mà bắt họ coi phim thì
khác nào như bắt đi ở tù. Thích thú một việc gì là do cái tâm của ta đam mê
vào đó mà ra, chứ không phải chính việc đó là thật sự tốt đẹp hoặc ích lợi làm
cho mình thích thú.
Do đó, nghĩ rằng: “hưởng thụ vật chất là sướng” thì
cái sướng này còn khá phàm tục! “Tu hành là khổ”, thì cái khổ này là tại vì con
người chưa biết tu! Một người khi
đã giác ngộ đường tu thì sự tu hành trở thành một sự thích thú của họ. Một
người quyết lòng niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ, thì niệm câu Phật hiệu là điều
sung sướng nhất, nếu lôi kéo họ đi xem một buổi đại nhạc hội thì chẳng khác gì
bắt họ chịu một buổi thọ hình! Như vậy vui thích hay không hoàn toàn tùy thuộc
vào cái tâm. Tâm hồn chúng ta đam mê ở đâu cho ta sự vui thích ở đó.
HT Tịnh Không thường nhắc đến câu này: “Người
gặp chuyện vui thì tâm hồn sảng khoái”, sự sảng khoái này không phải từ bên
ngoài đưa vào mà chính niềm vui từ bên trong phát ra. Tuy nhiên, ta cũng nên
chú ý, có cái thích thú phàm phu dẫn đến chỗ đọa lạc; có cái thích thú thánh
thiện đưa ta đến chỗ giải thoát, thành đạo. Dẫn đến chỗ đọa lạc là hậu quả của
cái tâm mê muội, dẫn đến chỗ giải thoát là kết quả của cái tâm giác ngộ. Chính
cái tâm này nó xác định chân tướng vạn pháp. Tâm đang mê thì thấy được thế
gian pháp. Tâm đang ngộ thì thấy được Phật pháp. Thế gian pháp và Phật pháp là
một chứ không phải hai, chỉ khác nhau ở chỗ tâm mê hay ngộ mà thôi.
Đường à, em muốn “hiểu sâu để tu hành cho
tốt…”, ý hướng này đáng khen. Nhưng câu hỏi của em nó bao gồm những cảnh giới
bao la, khó giảng giải cho tường tận. Một vài thư nữa anh sẽ cố gắng chấm dứt
đề tài này, nhưng trước khi qua đến những câu hỏi khác, anh sẽ giúp cho em một
phương pháp để hiểu, nếu biết áp dụng thì em dễ hiểu sâu vào Phật pháp.
Muốn hiểu Phật pháp thì đừng chạy theo cái
ngọn, đừng ham mê nghiên cứu quá nhiều thuật ngữ, mà hãy biết nắm lấy cái điểm
then chốt thì tự nhiên sẽ thấy rõ tất cả. Một trong những biểu thị của pháp Phật là
cái bánh xe, gọi là “Pháp luân”. Bánh xe pháp luôn luôn quay tròn, gọi là “Pháp
luân thường chuyển”. Nếu muốn hiểu sự chuyển động của pháp luân thì
đừng nhìn theo cái bánh xe quay tròn mà ta sẽ bị chóng mặt, điên đầu. Hãy nhìn
vào cái trục của bánh xe thì thấy rằng, tất cả đều chỉ quay quanh cái trục đó
mà thôi. Ví dụ, ở quê các em nhỏ thường cắt giấy làm chong chóng, nếu ta theo
dõi cái cánh chong chóng thì ta sẽ không thấy gì đâu, hoặc nhiều lắm cũng chỉ
thấy được lờ mờ cái dáng quay điên cuồng trong không khí chứ không thể thấy rõ
ràng được. Hãy nắm lấy cái trục của nó, thì ta có thể xoay hướng, điều khiển
được cái chong chóng quay theo ý muốn của mình. Phật pháp cũng vậy, phải biết
nắm lấy cái then chốt thì vạn pháp từ đó sẽ xuất sanh.
Then chốt ở đâu? Về lý thì: “Vạn pháp duy
tâm”, “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”, “Nhất thiết duy tâm tạo”. Những
câu này là then chốt của pháp Phật. Về sự thì: “Tín-Hạnh-Nguyện” đầy đủ. Về cơ
duyên thì: “Buông xả”. Hầu như thư nào anh cũng nhắc đến những câu này là để những
điều then chốt thâm nhập vào tâm. Anh gọi là Lý-Sự-Cơ, xoay quanh ba cái trục
(hay tấm kiếng) này thì em sẽ vượt qua hầu hết trở ngại. Khi đi khuyên người
niệm Phật, nếu có được hỏi đến Phật pháp, thì hãy dựa theo đây mà giải quyết.
Gặp người bị trở ngại về lý đạo thì lấy tấm kiếng “Vạn pháp duy tâm” chiếu vào
để giải cho họ. Gặp người chưa biết đường tu thì lấy tín-hạnh-nguyện ra khuyên.
Gặp người còn đi hàng hai, tu hành còn lòng vòng, còn ham thích đủ thứ, thì
khuyên nên biết buông xả, biết xem nhẹ thế trần, nên ly xa những cách tu rườm
rà, bất liễu giáo.
Hiểu về “Lý” để biết cương lĩnh tu hành,
biết về “Sự” để thực hành cho đúng. Biết “Buông xả” để đường đi không bị chướng
ngại. Đây là những điểm rất quan trọng. Trong đó, buông xả mới tương ứng được
với lý và sự ở trên. Tương ứng thì “Lý Sự viên dung”, viên thành Phật đạo.
Không tương ứng gọi là “Lý Sự chướng ngại”, đường tu hành khó thành tựu! Viên
dung hay chướng ngại là do có biết buông xả hay không.
Đến đây, coi như em đã nắm được cả lý đạo,
sự đạo và căn bản tu hành một cách tương đối tạm đủ. Bây giờ anh hỏi lại: Như
thế nào gọi là tu hành? Em tự trả lời được chăng? …. …. ….!
Trong thư của em có viết: “Quả thật tu khó,
không phải đơn giản! Thấy thì đơn giản nhưng làm thì không đơn giản. Nhìn lại
thấy mình lầm lỗi quá nhiều, nghiệp chướng quá sâu dày, cố gắng sửa, cố gắng
sám hối mà vẫn cứ phạm giới. Lòng thòng bên Phật bên đời, có điều mình không
muốn mà vẫn phải làm. Mong tới một ngày con cái lớn khôn, nợ trần một phần đã
trả, em sẽ xả bỏ tất cả, một mình trên con đường tu tiến dũng mãnh…”.
Cái ý tưởng biết hồi đầu tu hành của em thật
là khá tốt, rất đáng khen. Nhưng xét kỹ thì vẫn còn chấp thành ra mới thấy
“lòng thòng”! Một dịp nào khác rảnh rỗi hơn anh sẽ phân tích thêm cho em. Bây
giờ hãy lấy ba tấm kiếng Lý-Sự-Cơ ra chiếu soi thử coi có thể làm sáng tỏ được
gì không?
(*) Nói về lý, “Vạn pháp duy tâm”, thì khó
hay dễ là do tâm mình bị khó chứ không phải tu khó. Sở dĩ có cái khó này là vì ta chưa
định nghĩa được tu là gì, thành ra hướng nhìn còn hơi mờ mịt!
Tu là tu sửa, cái gì sai thì sửa lại cho
đúng: “Sửa Tham” là đừng tham lam nữa, hãy có lòng thương người, giúp người,
sống đơn giản, bỏ bớt sự ham muốn về vật chất đi… “Sửa Sân” là đừng nóng giận,
tâm đừng lao chao, từ từ mà làm, mình đã từng làm sai thì người khác cũng phải
sai, cớ chi lại giận ghét?… “Sửa Si” là đừng bướng bỉnh nữa, phải biết nghe lời
Phật dạy, hãy biết học với thiện tri thức, hãy xa lìa bạn bè xấu… Đó là tu, chứ
không phải chỉ vào chùa mới là tu.
Đừng nghĩ rằng, xuất gia chỉ là hành động bỏ
nhà vào chùa. Không phải vậy đâu! Bỏ nhà vào ở chùa chỉ là mới xuất được cái
“Điền trạch gia” hay “Thế tục gia” mà thôi. Không tu mà bỏ cái nhà đi lập lên
cái chùa, thì cái chùa cũng là hình thức một cái nhà. Cái “Nhà chùa” còn lớn
hơn và nợ nhiều hơn “Nhà riêng” vậy!
Nên nhớ, xuất gia ngoài cái thế tục gia còn
có cái phiền não gia, tam giới gia, sanh tử gia. Phải xuất cho trọn vẹn mới
được. Trong kinh, Phật dạy rằng xuất gia có bốn loại:
1)Thân xuất gia, tâm
chẳng xuất gia.
2)Thân chẳng xuất
gia, tâm xuất gia.
3)Thân tâm đều xuất
gia.
4)Thân tâm đều không
xuất gia.
Thân xuất gia mà tâm không xuất gia, không
tốt! Thân không xuất gia mà tâm xuất gia, đây là hạnh của Bồ-tát, rất tốt!
Trong đời mạt pháp này, nếu căn cơ và duyên phận chưa đủ, nên tu theo hạnh này
là an ổn nhứt. Thứ ba là thân tâm đều xuất gia, đây là tâm hạnh của Phật, rất
tốt, nhưng phải xuất cho trọn vẹn bốn cái “Gia” mới được, nếu không thì dễ bị
rơi vào dạng thứ nhất! Còn thân tâm đều không xuất gia thì cách tu này hoàn
toàn thất bại, dù hình thức có ra gì đi nữa vẫn là phàm phu, xin miễn bàn!
Nay em đã nghe thêm được một lời khuyên thì
hiểu thêm một sự thật, nếu trong đời gặp những chuyện lỗi đạo, phá giới, v.v…
thì đó là cá nhân lỗi chứ không phải Phật pháp lỗi. Nhất định không được quơ
đũa cả nắm.
Người cư sĩ tại gia, làm đúng phận sự mãn
phần Ưu-bà-tắc cũng có công đức rất lớn, chứ không phải tầm thường đâu. Trong
quá khứ có những vị Đại đức, Tổ sư tự xưng là “xuất gia Ưu-bà-tắc”, nghĩa là
xuất gia mà chỉ giữ năm giới của cư sĩ tại gia. (Trong thư em có hỏi về
Ưu-bà-tắc, anh sẽ quay trở lại chuyện này sau). Ở Hội Tịnh Tông, HT Tịnh Không
cũng chủ trương tương tự, Ngài khuyên đệ tử phải quyết lòng giữ trọn vẹn năm
giới và thủ pháp của đạo tràng, đồng thời thực hiện năm khoa mục Tịnh-độ, gồm
có: Tam phúc, lục hòa, tam học, lục độ, thập đại nguyện vương của Phổ Hiền
Bồ-tát. (Ngũ khoa Tịnh-độ có kèm theo trang cuối của kinh Vô-Lượng-Thọ, quyển
dịch âm Hán-Việt).
(*) Nói về cơ duyên, biết buông xả thì ở đâu
tu cũng được, buông xả chưa được thì tại gia cũng khó, xuất gia càng khó hơn.
Buông xả là tâm hồn phải biết xa lìa vọng niệm, buông bỏ ngoại duyên, cắt bỏ
những ái nhiễm của thói đời, chứ buông xả không bắt buộc phải xa gia đình, bỏ
vợ con, bỏ việc làm… Nghĩa là, hình thức bên ngoài thì không khác gì với thiên
hạ, nhưng trong tâm hồn thì thảnh thơi, an lạc. Làm có tiền nhiều thì tốt, tiền
ít cũng không sao, từ từ làm thêm. Hoàn cảnh mình khó, hãy nhìn nhiều người còn
khó hơn, mình khổ còn có người khổ hơn. Hiểu được vậy, thì tự nhiên thấy mình
còn khá may mắn…
Buông xả được thì tâm hồn sẽ an nhiên thanh
tịnh. Hãy thấy một sự thật rằng, vài mươi năm lưu xác ở thế gian này, sau cùng
sự nghiệp, tiền tài, tiếng tăm, giận hờn, hơn thua, thắng bại, v.v… tất cả cũng
trở thành số 0. Do đó, buông xả có nghĩa là, hãy coi mọi sự biến chuyển của thế
đời như một vở tuồng đang diễn ra nơi quán trọ. Ta trọ một thời gian rồi ta đi.
Đã là người lữ khách thì cớ chi phải xen vào chuyện của quán trọ cho bị vướng
víu, cho mệt tâm, để mãi mãi phải chịu nợ cái quán trọ và bị chủ quán trói chân
mình lại!
(*) Nói về sự, thì “lòng thòng bên Phật bên
đời” là vì chưa biết đường tu. Phật pháp bất ly thế gian pháp, thì giữa
“Phật” và “Đời” đâu còn chỗ để phân biệt! Biết vậy thì có gì mà phải lòng
thòng? Tin Phật, niệm Phật, phát nguyện vãng sanh là đang tu, chứ tu hành đâu
phải chỉ dựa vào hình thức bên ngoài! Tin thì tin ta có thể thành Phật, tin
Phật nói không sai. Tin nhân-quả, thì niệm Phật là nhân thành Phật là quả. Tin
lý-sự, “Lý” chính là vạn pháp duy tâm, tâm ta đã có đầy đủ, “Sự” là tin chắc có
thế giới Tây-phương Cực-lạc. Cứ ngày ngày thành tâm niệm, phải làm thiện lành,
phải xa lìa điều ác. Làm được việc thiện lành nào đều đem hồi hướng về
Tây-phương Cực-lạc, chứ đừng cầu xin được trả ơn, được khen tặng. Cứ làm như
vậy rồi nguyện vãng sanh thì cuối đời sẽ được vãng sanh.
Vậy thì, tu hành đơn giản chứ không phải rắc
rối lắm đâu. Ở đâu, lúc nào tu cũng được, cần gì phải đợi ngày con cái lớn
khôn, phải tách ly gia đình. Hẹn ngày con cái lớn khôn mới tu, giả như chúng nó
lớn mà không khôn thì làm sao tu? Lỡ mình chết trước khi chúng nó lớn thì ai tu
giùm cho mình đây? Muốn tách ly gia đình, lỡ tách không được thì sao? Càng đặt
điều kiện, điều kiện càng trói buộc mình.
Bây giờ trả lời câu hỏi: Ưu-bà-tắc là gì?
Đây là chữ dịch âm tiếng Phạn, nghĩa là cận sự nam, thanh tín nam, cận túc nam,
thanh tịnh nam, v.v… nói chung là người cư sĩ tu tại gia phụng sự Tam-bảo, (nếu
là nữ thì gọi là Ưu-bà-di). Năm giới cấm cho cư sĩ tại gia là: sát sanh, trộm
cắp, tà dâm, nói láo, uống rượu. Người cư sĩ thọ đủ và giữ đúng năm giới gọi là
“Mãn phần Ưu-bà-tắc hoặc Ưu-bà-di”.
Về giới luật thì chúng ta cần phải thực tế.
Em hiện là cư sĩ tại gia, chưa thọ qua giới luật, nhưng vẫn có thể học Phật và
giữ giới được. Giới cấm là sự tự nguyện, không phải bắt buộc. Thông thường,
muốn học Phật nên thọ tam quy và ngũ giới. Thọ trì tam quy là quy y Tam-bảo:
Phật-Pháp-Tăng. “Quy” là quay về, “Y” là nương tựa. “Phật” là Giác không mê,
“Pháp” là Chánh không tà, “Tăng” là Tịnh không nhiễm. Như vậy quy y Tam-bảo là
quay về nương tựa với Giác-Chánh-Tịnh, không được mê muội, không được tà vạy,
không được ô nhiễm nữa. Sự giác ngộ, chánh tri chánh kiến và tâm thanh tịnh đều
có sẵn trong tự tánh của chúng ta chứ không phải ở ngoài. (Coi thêm bộ “Tu-Phúc
Tu-Huệ”, Có cuộn video nói về tam quy ngũ giới do Ngài Tịnh Không giảng rất rõ
ràng, có dịp anh sẽ gởi về cho em).
Tam quy và ngũ giới là hai vấn đề khác nhau
chứ không phải một. Người Phật tử có thể chỉ xin thọ tam quy trước, rồi từ từ
thọ ngũ giới sau, hoặc chỉ thọ tam quy rồi tự nguyện thọ ngũ giới cũng được,
nhất là những người có hoàn cảnh quá khó khăn thì cần uyển chuyển, đừng nên thọ
giới rồi phá giới bừa bãi. Nếu các em nhắm mình chưa thể giữ đủ năm giới thì chỉ
thọ tam quy. Cha má mình cũng nên đi thọ tam quy y. (Nói với Như Ngọc hướng dẫn
cho cha má sớm làm việc này, có quy y Tam-bảo thì tâm có chỗ nương tựa, khỏi bị
chơi vơi! Năm giới cấm là: sát, đạo, dâm, vọng, tửu. Bốn giới đầu là căn bản
giới, còn uống rượu là để tránh cái tâm khỏi bị mê loạn mà phạm phải bốn giới
kia. Các em cứ tự xét mình có khả năng giữ được giới nào. Ví dụ, uống rượu dễ
giữ nhất, thì lên trước bàn thờ Phật nguyện xin giữ giới này. Sau đó, thấy giới
trộm cắp cũng có thể giữ được, thì trước bàn thờ Phật xin giữ thêm. Nên nhớ,
tâm còn yếu thì phải tự nhắm sức mình, giữ được giới nào thì phát nguyện giữ
giới đó.
Tu hành nên trọng về thực tế, không trọng về
hình thức. Người dự lễ thọ nhiều giới mà không nghiêm chỉnh giữ giới thì có ích
gì đâu! Cho nên cứ nhắm sức mà thọ. Hẳn nhiên phải nên biết cầu tiến. Đã thọ
giới thì quyết tâm giữ giới. Ví dụ, trước đây trong các bữa tiệc mình hay xung
phong cắt cổ gà, đây là vì tâm sát còn quá nặng, lòng từ bi chưa phát sanh,
thành ra lật ngửa cổ con gà ra cắt mà không có một chút động tâm thương hại.
Nay đã thọ giới rồi, đã ý thức được nghiệp sát sanh rất xấu, hệ quả của nó rất
tệ hại thì phải bỏ, không thể vị nể bạn bè mà phá giới sát. Quyết giữ như vậy
gọi là thủ giới.
Khi thấy rằng mình đủ khả năng giữ trọn năm
giới thì quá tốt, nên đến với một vị sư nào đó xin thọ giới, (nếu không có chùa
chiền thì mình cứ tự nguyện giữ giới cũng được). Lúc đó mình là mãn phần
ưu-bà-tắc. Người nữ thọ tam quy, ngũ giới thì gọi là mãn phần ưu-bà-di.
Ngoài năm giới căn bản ra, chính mình nên
lập giới riêng để thúc liễm thân tâm, đối trị những căn bệnh riêng của chính
mình thì mới tiến được. Ví dụ, ta có cái thói quen chơi đùa thường hay cười lớn
tiếng, rung đùi, quơ tay, chọc tức đối phương. Dù là đùa giỡn, nhưng đây là một
dạng thức của cái tâm loạn động, bất tịnh, thiếu hòa nhã, không hợp tư cách của
người đạo hạnh. Nay ta hứa quyết bỏ, đây là giới. Thường nóng giận, quyết tâm
bỏ nóng giận, đây là giới. Tự mình quán xét chính mình mà lập thêm giới để giữ.
Đó gọi là thủ giới, và cũng gọi là tu tập.
Có tu tập mới có công đức, có công đức mới
được thành tựu. Phản tỉnh lỗi lầm là công, tu sửa lỗi lầm là đức. Tu sửa lỗi
lầm là công, lập giới luật để thủ giữ là đức. Thủ giới là công thì thành tựu
tâm định là đức. Tâm định là công, sinh ra tâm huệ là đức. Cho nên thủ giới rất
quan trọng, từ đó từng bậc từng bậc công hạnh của mình nâng cao lên đến chỗ
thành tựu.
Biết được Lý-Sự-Cơ, hãy đem nó ra áp dụng
vào chỗ này rất thỏa đáng. Ví dụ, cơ là buông xả, những lỗi lầm của mình nên biết
tự phản tỉnh mà buông bỏ nó đi. Đây là công. Buông lỗi lầm rồi mà không lập
giới để giữ thì có thể tái phạm lỗi lầm, đó là có công mà thiếu đức, đưa đến sự
tu không bền. “Sự” tu không bền là do thiếu chí hướng, tâm còn mê muội, phàm
phu (Lý). Ba trục Lý-Sự-Cơ đã thiếu mất hai, thành ra Lý-Sự chướng ngại, khó
thể thành tựu.
Ngược lại, biết đường tu hành, có chí hướng
vãng sanh Tây-phương, đây là có tâm đạo thuộc về “Lý”. Có hạ thủ công phu tu
tập, có niệm Phật hàng ngày, đây thuộc về “Sự”. Có Lý-Sự đầy đủ, nhưng không
chịu phản tỉnh lỗi lầm, còn tham lam, sân giận, ngã mạn, tự cao, bướng bỉnh, cố
chấp, ích kỷ… Đây là do không biết buông xả, cứ bám rễ vào tam đồ, lục đạo,
luân hồi thành ra thiếu cái trục “Cơ duyên”. Vì thế, lý đạo và sự tu chỉ còn là
hình thức trống rỗng!
Ví dụ khác, có người tu hành rất tinh tấn,
chuyên công niệm Phật, ăn ở hiền lành, tâm địa thiện lương, buông bỏ được những
thói hư tật xấu thế gian. Tu hành rất cần phấn, nhưng lại không nguyện vãng
sanh Tây-phương, không tin có thế giới Cực-lạc. Những dạng tu hành này rất phổ
thông, họ là những người tốt, hiền lành. Nhưng đáng tiếc là có “Cơ”, có “Sự” mà
thiếu “Lý” đạo. “Vạn pháp duy tâm tạo”, tâm không muốn vãng sanh, thì bao nhiêu
công đức tu hành trở thành phước báu. Đời sau có thể hưởng phước. Hưởng phước
rồi thì sao? Đi dạo tìm thử coi, có mấy người quyền cao chức trọng mà biết tu?
Có mấy người giàu sang phú quý mà biết tu? Hưởng phước để chờ đại nạn, thật tội
nghiệp cho họ vậy!
Trở lại chuyện cảnh giới. Cũng nên nhớ rằng,
mục đích của anh là “Khuyên người niệm Phật”, thì tất cả mọi thứ đều xoay quanh
mục tiêu này. Biết cảnh giới thì phải lợi dụng cảnh giới để niệm Phật. Điểm
quan trọng là chính các em phải biết tu hành. Tu hành thì cái hạnh đầu tiên là
cố gắng lo tròn chữ hiếu, phải biết ứng dụng vào hoàn cảnh thực tế để điều
chỉnh cho thích ứng, giúp cha mẹ mình được vãng sanh, viên thành đạo quả. Đây
mới là điều tốt, còn những kiến thức xa vời mông lung thì phải “Buông bỏ” đi.
Thư trước anh nói về cảnh giới người, còn quá thấp kém, nếu tâm còn muốn sanh
trở lại làm người thì phải mất phần vãng sanh, tự chịu đọa lạc. Vì vậy muốn
khuyên người niệm Phật để được vãng sanh thành Phật, thì đừng khuyến khích
những pháp tu nhân thừa.
Cha mẹ mình hồi giờ chuyên tu về nhân thừa,
hay lấy câu: “Mười người chết bảy còn ba, chết hai còn một mới ra thái bình”,
nghĩ đến cảnh nhân loại trên thế gian bị diệt chết chín phần, sợ quá cho nên
phải tu để lọt vào một phần tử sống sót đó mà làm người trở lại. Sự tìm cầu này
không phải xấu, nhưng khó thoát nạn! Vì sao? Vì nghiệp chướng trong vô lượng
kiếp của mình chưa trừ, vì cộng nghiệp chúng sanh quá nặng, vì cạm bẫy của
ngoại đạo hưng thịnh, vì tâm của mình còn vô minh chưa phân biệt nổi chánh tà,
vì oan gia trái chủ nhiều đời nhiều kiếp chưa được hóa giải, v.v… và v.v… Chính
vì thế, tu để cầu thành người mà mong được thoát nạn thật là một điều quá sơ
hở! Trong nhiều thư trước anh thường nhấn mạnh điều này là để cho các em hiểu,
cho các anh chị em hiểu, hầu góp ý xây dựng chung, cứu độ cho nhau. Nhất là cứu
huệ mạng những người ở tuổi xế chiều.
Tu để thành người là pháp tu có “Thiện”
nhưng không có “Chung”, nên rốt cuộc khó có “Thiện Chung”. Làm thiện để cầu
hưởng phước, thì thiện là hình thức, còn tham là nội dung! Chính vì vậy mà cách
tu “Thiện” này bị kẹt trong “Tam thế oán”, cuối cùng không thoát được đại nạn!
Muốn thoát nạn, muốn ra khỏi lục đạo sanh tử luân hồi thì phải tu “Tịnh
nghiệp”, chứ không thể tu “Thiện nghiệp”. Tịnh nghiệp là đại thiện giải thoát,
thiện nghiệp là tiểu thiện hưởng lợi chờ hại. Hai cách tu về hình thức thì
tương tự, nhưng tâm niệm thì khác xa. Đã có cái căn bản về Lý-Sự-Cơ, thì gặp
một vấn đề nào cũng nên lấy ba cái kiếng này ra mà chiếu, các em sẽ thấy vấn đề
dễ dàng và rõ ràng hơn.
(Cũng nên nhớ rằng, Lý-Sự-Cơ là cách nói của
riêng anh, nó thành ba chân vạc giúp anh giải quyết khó khăn, anh chỉ dẫn lại
cho các em để áp dụng, chứ không phải là một pháp đã có trước. Không biết trước
đây có ai đã nói như vậy chưa? Nhưng không sao! Đây chỉ là phương tiện để sử
dụng, đúng hoặc sai là do tâm ngộ hay mê mà thôi).
Thôi, anh bắt đầu nói đến cảnh giới A-tu-la,
là cảnh giới thiện cao hơn cảnh giới người.
(*) Quỉ-Thần là cảnh thiện. Đúng, nhưng đối
với chư Trời thì Quỉ-Thần còn thấp hơn, còn xấu ác. Đối với chư Phật và
các Thánh ngoài tam giới thì quỉ thần còn cách xa vời vợi. Quỉ-Thần (A-tu-la)
có phước báu lớn hơn người, nhưng vẫn còn là cảnh giới trong lục đạo sanh tử
luân hồi, có tâm sát và đấu tranh rất lớn. Đức Khổng Phu tử dạy: “Hãy kính
Quỉ-Thần, nhưng đừng theo Quỉ-Thần”, lời khuyên này rất chí lý.
Muốn sanh lên cảnh giới A-tu-la thì phải tu
mười điều thiện, về thân thì không: sát sanh, trộm cắp, tà dâm; về miệng thì
không: nói hai chiều, nói điều ác độc, nói láo, nói thêm; về ý thì không: tham
lam, sân giận, ngu si. Làm 10 điều này đến trên 90% thì mới có thể sanh thiên
hoặc A-tu-la. Như vậy muốn thành loài quỉ thần A-tu-la không phải dễ! Phật dạy:
“Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự
tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo”. Tất cả đều phải làm thiện. Muốn thành người,
thành thần, thành trời, thành Phật Bồ-tát cũng đều phải tu thiện.
Nhưng tại sao cũng là tu thiện nhưng cảnh
giới lại khác nhau? Trả lời: Lấy ba trục Lý-Sự-Cơ chiếu vào là thấy ngay. Muốn thành
người, quỉ thần trong lục đạo là do tâm mình muốn ở lại trong sanh tử luân hồi,
cho nên mới chủ tâm tu theo các pháp nhân thiên. Muốn thành Phật, vượt thoát
càn khôn, vĩnh ly sanh tử luân hồi cũng do tâm muốn cho nên mới tu theo pháp
xuất thế gian. Thế gian hay xuất thế gian đều do tâm tạo. Thờ Phật, niệm Phật,
nguyện vãng sanh Tây-phương Cực-lạc thì được thoát ly tam giới thành Phật. Thờ
quỉ thần, Tiên Ông, Thần linh thì phải đành ở lại trong lục đạo mà tiếp tục
chịu khổ nạn. Tất cả là do chính con người tự chọn lấy chứ không ai bắt buộc
mình cả!
Những vị Thần-Tiên được người ta thờ thường
là thiện thần, họ muốn giúp người, hướng dẫn người đến chỗ giải thoát. Nhưng
con người vì sơ ý, không chịu cẩn thận lắng nghe lời dạy, thành ra đường tu
thường bị lạc một cách oan uổng!
Anh Năm có tâm nguyện muốn cứu cha má thoát
nạn, chỉ đường cho cha má vãng sanh. Cha má mình muốn vãng sanh Tây-phương
Cực-lạc nhưng lại thờ Thần-Tiên, thành ra có chỗ vướng! Vì có lẽ chưa rõ cái
“Lý duy tâm”, cho nên bị kẹt vào cái “Sự thờ cúng”. Anh đã thấy chuyện này lâu
rồi nhưng chính anh chưa đủ sức xoay chuyển. Thành ra hôm nay anh mới cố gắng
giải bày ra đây, mong rằng các em cùng tất cả anh chị hiểu thấu, và nên có lời
phân trần thích đáng.
Việc thờ phụng có ảnh hưởng rất lớn. Ta thờ
gì thì tâm sẽ dính theo đó. Ta niệm gì thì nương theo đó mà đi. Muốn vãng sanh
Tây-phương, thì phải thờ A-di-đà Phật, niệm Phật. Nên nhớ, thờ A-di-đà Phật là
có đủ tất cả chư Phật, chư Bồ-tát, chư Thánh Thần. Nhưng thờ niệm một vị Phật
hay Bồ-tát khác thì trở thành pháp tự tu chứng, không được sự gia trì của 48
đại nguyện của Đức Di Đà, dễ bị lạc. Còn thờ niệm A-di-đà Phật, cầu về thế giới
của A-di-đà Phật thì tâm được chuyên nhất, khỏi bị lạc. Tại sao vậy? Đây là
nguyên tắc của pháp môn. Phật dạy niệm A-di-đà Phật, ta không niệm danh hiệu
này lại đi niệm danh hiệu khác, thì tự ta tự chọn lấy con đường riêng vậy!
Xin nêu ra vài sự sơ ý làm ví dụ:
Cách đây mấy năm, Ngài Tịnh Không cho ấn
tống hàng ngàn bộ đại tạng kinh của Phật để biếu tặng khắp nơi, mục đích là để
lưu tồn Phật pháp. Có người đứng tên cá nhân xin thỉnh, nhưng không ngờ vẫn
được. Một bộ đại tạng kinh in ấn rất đẹp, trị giá trên 3 ngàn mỹ kim. Hơn nữa 3
ngàn Mỹ kim dễ tìm, nhưng bộ đại tạng kinh đầy đủ và hoàn chỉnh của Phật đâu dễ
gì có, thành ra nó rất quý. Nhưng khổ nỗi, kinh tạng thì bằng tiếng Hoa, người
Việt Nam làm sao đọc được. Vì cảm kích lòng từ bi của Ngài, cộng thêm tâm thành
kính đối với Phật pháp, vị đó thường ngày quì lạy bộ đại tạng kinh và nguyện:
“Đời này con đọc không được, thì xin cho kiếp sau đọc được đại tạng kinh của
Phật”.
Phát ra lời nguyện này quả thật là người có
tâm chí thành chí kính đối với Phật pháp. Nhưng có người lại nói, nếu Ngài Tịnh
Không biết rằng vị đó phải quì lạy bộ đại tạng kinh và phát nguyện như vậy, thì
có lẽ một quyển Ngài cũng không cho, chứ đừng nói chi đến cả một bộ đại tạng
kinh! Tại sao vậy? Vì Phật pháp là phương tiện, thành Phật mới là mục đích
chính. Nguyện thành Phật không hay hơn là nguyện tái sanh thành người Trung Hoa
để đọc được tiếng Tàu hay sao!?
Phải chăng, vì cảm tình sâu rộng mà con
người thường phát ra những tâm nguyện sai lầm mà không hay!
Ngài Ấn Quang đại sư là Bồ-tát Đại Thế Chí
tái lai, Ngài dạy chúng sanh phải niệm Phật, ăn chay, làm lành. Ngài nghiêm
khắc không cho ai tôn thờ Ngài. Đại Thế Chí là vị Đẳng Giác Bồ-tát, đứng bên
phải của Đức A-di-đà Phật. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ nói, cái năng lực của
Ngài rất lớn, mỗi bước chân Ngài đi làm chấn động đến thập phương pháp giới, ấy
thế mà Ngài cũng không cho phép thờ Ngài. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ngài Đại
Thế Chí dạy rằng: “thâu nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế, bất giả phương tiện
tự đắc tâm khai”, đóng tất cả sáu căn lại để niệm A-di-đà Phật thì tự nhiên
thành Phật. Ngài bảo phải niệm A-di-đà Phật, chứ không bảo ai phải thờ Ngài,
phải niệm Ngài. Phải chú ý điều này.
Cha má mình có tu hành, thờ chính là một vị
“Tiên Ông Đại Bồ-tát Ma-ha-tát”. Danh từ “Bồ-tát Ma-ha-tát” là từ trong kinh
Phật mà ra. Ma-ha-tát có nghĩa là lớn. Bồ-tát ma-ha-tát là đại chúng sanh, đại
hữu tình, một đại chúng sanh đang đi tìm đạo quả. Như vậy, nếu một vị Tiên Ông
đúng là Bồ-tát thì là một vị đại Bồ-tát trong một thế giới nào đó, vẫn còn phải
tu hành. Đại Bồ-tát vẫn còn những phẩm thân tướng vô minh cần phải phá để chứng
từng phần pháp thân, tiến lần đến quả vị Phật. Nói rõ hơn, Bồ-tát vẫn phải niệm
Phật cầu Phật gia trì. Rất nhiều vị Đẳng giác Bồ-tát ở các thế giới cũng phải
niệm A-di-đà Phật cầu sanh Tịnh-độ. Các vị đó có tâm đại từ đại bi, giác ngộ
hơn chúng ta, có thiện căn phước đức hơn chúng ta. Quý Ngài có khả năng hướng
dẫn chúng sanh tu hành, chứ chưa thể cứu độ chúng sanh thành Phật. Chính vì vậy
mà trong kinh của cha thường tụng, có câu: “Một lòng niệm Phật, ăn chay, làm
lành”. Ngài muốn chúng sanh được giải thoát nên dạy niệm Phật, dạy thờ Phật. Đệ
tử không nghe lời sư phụ, không chịu thờ Phật lại đi thờ Ngài, nhiều khi còn
nghĩ rằng Tiên Ông lớn hơn Phật, có quyền năng ban phát ơn huệ. Thật là oái
oăm! Đây là vì người sai chứ không phải Ngài sai!
“Niệm Phật, ăn chay, làm lành” có đầy đủ
Lý-Sự-Cơ để viên mãn giải thoát thành đạo Bồ-đề. Đây là cái đỉnh tối cao của
đại đạo. Rõ ràng là một đạo giải thoát mà nhiều người không chịu để ý đến. Vì
sơ ý việc thờ niệm, vô tình đã biến một pháp xuất thế gian giải thoát thành
Phật, thành ra pháp thế gian hưởng phước. Thật là oan uổng biết chừng nào! Vì
một tâm nguyện cứu cha má, anh đành phải nói cho rõ lý đạo, đừng nên hiểu là sự
kỳ thị nhé.
Thôi, chuyện này còn dài, sẽ tiếp tục ở thư
sau. Tu hành phải biết chọn cảnh giới vãng sanh. Cảnh giới trùng trùng điệp
điệp, sai một ly đi xa mù mịt. Với tâm lực còn quá kém cỏi của chúng sanh, nhất
là trong thời mạt pháp này, không thể tự tu tự chứng, không đủ sáng suốt tự
chọn chỗ tốt đẹp cho tương lai. Chư Bồ-tát, đức Thích-Ca Như-Lai, chư Phật mười
phương đồng thanh khuyên chúng sanh phải chuyên lòng niệm A-di-đà Phật, nhất
hướng nguyện sanh Tây-phương Cực-lạc. Chúng ta hãy quyết lòng tin tưởng vào
pháp niệm Phật để một đời này được vãng sanh về thế giới Cực-lạc, thành bậc bất
thối, chờ ngày thành Phật.
Đường đi thẳng tắt, hành trì dễ dàng.
A-di-đà Phật và chư Phật mười phương gia trì trong từng tiếng niệm Phật, ta cứ
một lòng niệm Phật chắc chắn sẽ thành Phật vậy. (Thư còn tiếp).
A-di-đà Phật,
Anh Năm.
(Úc châu, ngày 12/10/03).
Người
niệm Phật không phải chỉ tu theo sự tướng bên ngoài, mà cần phải để ý trừ phiền
não cùng tập nghiệp lỗi lầm xấu xa. Nếu phiền não bớt một phần thì công phu
niệm Phật tăng một phần. Trái lại, để phiền não tăng, tất công hạnh phải lui
kém. Thành ra có người càng tu hành càng đổ nghiệp là bởi vì lý do này.(Ấn
Quang Đại Sư)