Kính cha má,
Niệm Phật được mười điều lợi ích, trong đó
cái lợi sau cùng là được vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc thế giới, một đời này
thôi ta thoát khỏi sinh-tử luân-hồi. Đây là cái lợi ích chung cuộc. Không có
cái lợi ích này thì tất cả những lợi ích kia chỉ là mộng-huyễn, vì có thu lợi
nhiều đến mấy đi nữa nhưng rồi cũng chết, gắng gượng sống thêm một vài năm bệnh
hoạn trong cái xã hội đầy sầu não, sau cùng chính thần-thức của mình bị đọa
lạc, thì có gì đâu mà lợi?!... “Chuyển thân thọ thân, cải hình dị đạo”. Khó
đoán được tương lai.
Hãy giác-ngộ cha má ơi! Cố gắng tu hành nhắm
thẳng tới sự giải thoát viên mãn, đừng nên bám víu vào những điều lợi vụn vặt
mà tự hại ngàn đời. Bây giờ, trí-huệ đang trói trong cái nhục thân phàm tục cho
nên mình không thấy, chứ một khi đã thấy rồi thì sự việc này quan hệ lớn lắm.
Bị đọa lạc kinh khủng lắm! Không thể lơ là bừa bãi được đâu. Nhiều lá thư rồi
con nhắc đến chuyện này, mong cha má thức ngộ, làm gương cho gia đình, bà con
cô bác, cùng tỉnh cơn mê, cùng nhìn ra sự thật, cố gắng tu hành tránh hiểm nạn.
Về quê, tuy thời gian ngắn ngủi, nhưng con
thấy cũng khá nhiều điều, có dịp con lần lượt nói ra cho mọi người nghe. Tu
hành coi vậy chứ có nhiều nẻo lắt léo, chú ý lắm may ra mới thấy vấn đề!
Hòa-Thượng Tịnh-Không ít khi nói thẳng tên, sửa thẳng việc, nhưng một khi Ngài
thấy cái sai lầm của người nào thì trong những buổi thăng tòa giảng kinh Ngài
nói ra sự việc đó. Có nhiều lúc Ngài nghiêm sắc mặt chỉ thẳng vào máy thâu hình
mà nói, “...Tôi nói đây là cho chính quý vị nghe, quý vị lại tưởng tôi nói đến
người bên cạnh chứ không phải nói mình, cho nên tự mình cho là ngon lắm, đắc
đạo rồi, thành ra không chịu tự sửa. Học Phật phải tự xét chính mình, đừng nhìn
cái lỗi của thiên hạ thì quý vị mới mong có ngày khai ngộ...”.
Ngài nhìn thẳng vào máy là nhìn đến mình.
Ngài chỉ thẳng vào máy là chỉ tới mình. Chính lúc đó, ai biết hồi tâm thì lo tự
sửa lấy. Con học theo pháp của Ngài, trước lo sửa chữa và sau nói chuyện với
mọi người. Mỗi lần viết thư, nếu không phải là em út ruột thịt, con không bao
giờ dám lên mặt dạy đời đâu. Tuy nhiên, vì là người học Phật, phát tâm muốn
giúp đỡ chúng sanh, cứu nạn cho người, lúc nào con cũng thầm mong những người
thân thuộc, tất cả người nào đã đọc được thư con đều để tâm đến để được thoát
nạn.
Đời mạt pháp này nghiệp chướng chúng sanh
quá nặng nhưng lại hơi giống với nhau. Phật nói tất cả đều do ba cái độc tham,
sân, si, mà ra cả. Người không tham thì sân giận, không sân giận thì lại bị ngu
si. Vì ngu si cho nên cống cao ngã mạn. Điều này thấp kém lắm, vì người khôn
ngoan không cống cao ngã mạn, người học cao hiểu rộng bao giờ lại ngạo nghễ với
đời? Cho nên cha má cũng nên truyền bá những tư tưởng đạo đức này cho con cháu
biết. Lỗi lầm của chúng sanh ngày nay không xa vấn đề này đâu! Hãy tự xét cái
sơ suất của mình để ngày ngày sửa đổi, đó là tu hành vậy!...
Niệm Phật, pháp môn tối vi diệu, nhưng vì
chúng sanh có cái bệnh tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến... lớn quá nên không
được lợi ích. Có người, vì nghiệp chướng quá nặng nên không chịu nghe theo. Có
người, có lòng tin nhưng lại tham đắc đạo nhanh, niệm một vài câu Phật hiệu thì
đã vội cầu chứng đắc thành ra thất bại. Có người tự mãn vì quá khôn, kiến thức
tốt, tự vạch lấy những cách tu trì riêng mà rước lấy bi thảm.... Chính vì vậy
vẫn còn quá nhiều chúng sanh nối đuôi nhau chờ vào chỗ hiểm nạn. Ví dụ cụ thể
nhất, trong lần về quê thăm này con phát hiện một số người niệm Phật thèm muốn
được Phật xuất hiện, thấy được Bồ-tát hiện ra đêm đêm để an ủi, vỗ về. Có người
còn nói với con, “...trước đây mỗi lần tụng kinh Phổ-Môn, tôi đều thấy Bồ-tát
ứng hiện, độ rày tôi bận quá không tụng nữa cho nên không thấy nữa. Tiếc
quá!...”.
Thưa cha má, tất cả những hiện tượng này thường là không tốt lắm! Hôm nay con
nói thêm về điểm này để mong cảnh tỉnh thêm nhiều người hầu tránh những trở
ngại thuộc về ma chướng về sau. Cha má đến tuổi cuối đời mới may mắn gặp được
Phật đạo, thì chắc chắn công phu không thể cao dày được, tất cả đều phải nhờ
vào Phật lực gia trì mới mong thoát hiểm. Muốn tránh được ma chướng, thì niệm
Phật là hay nhứt, vì tất cả các pháp môn đều tự lực tu trì chứng đắc, chỉ có
thành tâm niệm Phật mới được chư Thiên gia hộ, hai mươi lăm vị Bồ-tát bảo vệ,
ác quỷ dạ-xoa, la-sát... không thể đến gần, mới tránh khỏi ma nghiệp. Sau cùng,
được Phật A-di-đà tiếp dẫn vãng sanh, vĩnh viễn xuất ly tam giới, nhập vào cảnh
giới của chư Bồ-tát, Phật. Tất cả mọi phép tu dù hay tới đâu mà không siêu việt
tam giới, thì chắc chắn vẫn còn bị đọa lạc, nhiều lúc càng tu nhiều càng bị nặng
vì hậu quả của “Tam-thế-oán”.
Thế thì tại sao niệm Phật mà có thể vẫn bị
phá hoại? Vấn đề cần hiểu rõ ràng không nên lầm lẫn. Niệm Phật, thì được Phật
Bồ-tát bảo vệ để cuối đời người đó vãng sanh. Nói như vậy không có nghĩa là cứ
niệm Phật chơi chơi là được Phật tiếp dẫn đâu. Niệm Phật, là để mình được giải
thoát chứ không phải niệm cho chư Phật. Nhiều người cứ nghĩ tu là tu cho chùa
được đông người, tu cho vị Sư khỏi buồn... tu hành giống như kiểu đi bầu cử cho
chùa được nhiều phiếu. Có lẽ vì vậy, thành ra mới niệm một vài câu là bắt đầu
yêu cầu lung tung, như cầu gia đạo yên vui, thăng quan phát tài, đòi hỏi chùa
phải làm thứ này thứ nọ... Cầu mong như vậy, nghĩ kỹ coi, là tu-hành hay
tham-lam? Từ bi, hỷ xả hay tự tư ích kỷ?... Hễ đang học Phật thì Phật gia trì,
còn đang tham lam ích kỷ thì ngoại lực gia trì. Cầu Phật có Phật, cầu Ma có Ma.
Đạo lý là như vậy!
Phật - Ma, Ma - Phật ở tại tâm. Cha thường
dạy, tâm chánh là Phật, tâm tà là Ma. Như vậy Phật là đâu? Phật là tâm. Ma là
đâu? Ma cũng là tâm. Tâm là đâu? Tâm là ta đây chứ còn đâu nữa. Như vậy rõ ràng
chính ta vừa là Phật, vừa là Ma. Giác thành Phật, mê thành Ma. Phật dạy, bất cứ
lúc nào ta biết quay đầu thì thành Phật liền, đạo lý chính là ở chỗ này.
Ma có bốn loại ma: nội-ma, ngoại-ma,
ngũ-ấm-ma, tử-ma. Con ma của chính ta là nội-ma hay là phiền-não-ma, ngoại cảnh
là thiên-ma hay ngoại-ma, thân-thể-vô-thường là ngũ-ấm-ma, cái làm cho ta chết
là tử-ma. Chúng ta đang mê nên đang sống trong sự kiểm soát của ma lực. Hễ
nội-ma của ta mở cửa thì ngoại-ma nhập vào. Nếu ta ngoan ngoãn chấp nhận hiện
tượng này, không phản ứng thì tạm yên, vì sau cùng ta đều phải tuân phục sự dẫn
độ đến chỗ sai lầm.
Người ta thường cho rằng “sống làm người,
chết làm ma”. Đó là tự họ muốn vậy, vì thế đám chết mới gọi là đám ma. Bây giờ
biết tu hành thì ta có thể đổi lại là “sống làm người, vãng sanh thành Phật”,
thì khi mãn báo thân này ta làm tiệc vãng sanh, kêu người ta tới hộ-niệm cho ta
vãng sanh.
Bình thường con người vô tình hay cố ý đều
làm những việc sai lầm, thường cứ cầu xin về những nẻo hiểm ác mà họ không hay.
Ví dụ, như vì tình nghĩa vợ chồng quá thâm trọng, “...xây mồ bên cạnh nguyện
xuống âm phủ gặp nhau...”. Có lần bác Ba Th. nói với con: “... Bác có chết thì
bác xuống địa ngục một mình, bây giờ nhà bác bác ở, nhất thiết không đi đâu
hết...”.
Thật là dễ sợ! Dựng tóc gáy! Nghĩ cho kỹ, nhà đó đâu phải là nhà của bác. Đó
chỉ là cái thứ vô-thường dựng lên cho cái thân vô-thường tạm trú. Một vài năm
nữa rồi vô-thường cũng trả về cho vô-thường, bác có ở lại giữ được đâu? Tại sao
chúng ta không nhận ra thực giả mà tìm đường thoát nạn vậy? Ở trên đời này, con
cái dù có bất hiếu tới đâu, nhiều lắm cũng chỉ nói một vài câu sai lầm mà ta đã
chịu không nổi, lại thề xuống địa ngục cho thỏa giận.
Đơn giản như vậy sao! Ở đó, họ đâu có thèm
nói nặng nhẹ, họ túm cổ ta liệng vào chảo dầu mà chiên, trói cổ vào trụ đồng mà
đốt, cột đầu trên giường sắt mà nướng, cho hàng trăm đao ngàn kiếm phanh thây
ta ra thành muôn mảnh... chứ đâu có hiền!
Địa-ngục có nhiều tầng cấp, có Vô-Gián địa
ngục, A-Tỳ địa ngục, Căn-Bản địa ngục, Du-Tăng địa ngục, Biên-Địa địa ngục...
một ngày ở đó, nhẹ nhứt cũng dài bằng hai ngàn bảy trăm năm trên thế gian.
Trong kinh Phật nói, dưới địa ngục một ngày chúng sanh bị thọ hình chết đi sống
lại cả ngàn, vạn lần. Tính ra, nếu tội nhẹ thì chết một ngàn lần trong ngày,
một ngày dài hai ngàn bảy trăm năm, như vậy cứ hai hoặc ba năm bị hành hạ chết
đi sống lại một lần. Nếu nặng thì bị hành hạ chết một vạn lần, nghĩa là cứ hai
hoặc ba tháng thì bị cực hình đến chết một lần. Đâu phải tầm thường, mà cứ muốn
xuống địa-ngục sống cho yên! Xin Cha má hãy sớm tới thăm bác và giúp cho bác Ba
hiểu mà bỏ đi lời thề này. Khuyên bác tuổi già hãy mau mau biết buông xả, về ở
với con cháu cho anh Hai Lý lo liệu phụng dưỡng, và chính bác phải gấp rút niệm
Phật cầu vãng sanh Tây-phương mới mong thoát nạn được, còn không thì thê thảm
lắm đó!
Trở lại chuyện tại sao người tu bị phá hoại?
Trước đây con thường ví như người đang gia nhập đảng cướp, hễ tiếp tục tùng
phục chúng thì tạm yên để làm ác, nếu tìm cách thoát thân thì coi chừng bị
chúng ám hại. Nên nhớ, yên là yên tạm bợ rồi chờ ngày bị quốc gia chế tài chứ
đâu phải yên lành luôn đâu. Quốc gia tượng trưng cho Phật, đảng cướp tượng
trưng cho ngoại lực. Quốc gia vẫn hằng bảo vệ chúng ta, tại vì chúng ta tự theo
kẻ cướp thì đành chịu pháp luật chế tài chứ làm sao được phước huệ của quốc
gia. Sự lý là vậy. Phật đang ngày đêm cứu độ chúng sanh, chúng sanh không chịu
nghe, lại làm điều sai lạc để sau cùng bị dẫn độ vào đường khổ nạn. Đây là tại
ta tự nguyện chứ đâu phải tại Phật.
Cho nên, Tổ sư mới có câu, “Vô Thiền vô
Tịnh-độ, thiết sàng tinh đồng trụ”, (người không tu Thiền mà cũng không tu Tịnh
thì hãy chờ mà vào địa-ngục để nhận chịu hình phạt “giường-sắt” và “trụ-đồng”
thiêu đốt). Người giác ngộ biết vậy, chi bằng tìm cách thoát nạn trước có hay
hơn không? Những tiên triệu khổ nạn này thường có thể dễ thấy nhứt, là lúc báo
thân sắp mãn. Ví dụ, như có người điên cuồng, mê muội, ngu si... (theo cảnh
giới của súc-sanh); có người loạn óc, hung hiểm, đố kỵ, lúc chết bị khủng bố
hãi hùng... (cảnh giới địa-ngục); có người tham lam, bỏn xẻn, gian xảo, lường
lọc... (cảnh giới ngạ-quỷ); có người mê mê tỉnh tỉnh, như đang sống với một thế
giới vô hình nào đó, (cảnh giới ma-quái), v.v... Người không hiểu đạo cứ tự
nhiên coi sự việc bình thường, người hiểu đạo họ thấy suốt luôn cả sự thể tương
lai, hiểu được cảnh tượng thê lương sau đó, cho nên mới lo toan tu hành thoát
nạn.
Khi tìm cách thoát ly thì đôi lúc có thể bị
tà lực tới phá hoại để tìm cách kéo chân mình lại. Chính vì không hiểu chuyện
này mà có người cho rằng tu hành mới bị trở ngại, còn không tu thì yên thân,
nên thà đừng tu thì sướng hơn! Đây là lý luận không đúng. Nhìn con mèo đang say
sưa liếm mỡ trên lưỡi dao mà cảm thấy rợn người, cha má ạ!...
Trở lại vấn đề niệm Phật. Trước đây con
thường nói phải thành tâm chí kính niệm Phật, biết buông xả thế tình thì tự
nhiên thành công. Hôm nay con nói rõ hơn, dễ hiểu hơn:
1) Là thành thật niệm Phật: Niệm Phật là
niệm cho mình vãng sanh, chứ không phải niệm cho người khác biết mình có tu
hành. Tốt nhứt là cha má hãy âm thầm niệm Phật và âm thầm cầu nguyện vãng sanh
Tây-phương Cực-lạc hàng ngày, thoát ly khỏi thế giới Ta-bà này, còn người khác
có khen hay chê không cần thiết. Trần tục này quá khổ, quá điên loạn, là thế
giới ngũ trược ác thế. Hãy chán bỏ nó đi mà thành tâm nguyện về với Phật cha má
ơi, còn nếu chần chừ thì không còn cơ hội để thử lại nữa đâu. Người ngoài, con
cháu, làng xóm... nên thành tâm khuyên họ tu hành, ai nghe theo thì tốt, không
theo thì tùy theo duyên của họ. Riêng cha má cứ một lòng ngày đêm niệm Phật,
ngày ngày lập lại lời nguyện vãng sanh. Nhứt thiết không được bỏ một ngày nào
hết.
2) Là thực thà, hiền lành, giúp đời: Niệm
Phật đã quyết một đường vãng sanh, thì xin cha má cố gắng mà làm phước làm lành
nhiều hơn nữa. Tình thực mà nói, ông bà mình có danh vọng, có phước báu, ruộng
“cò bay thẳng cánh, chó chạy ngay đuôi!” nhưng sau cùng cũng trụi lủi, không
giữ được cho hậu thế qua một thế hệ, không giúp được đàn con cháu khỏi tha
phương cầu thực... Người có phước mà biết làm phước, thì dù cho thế sự có xoay
vần tới đâu phước lộc của họ cũng tự tìm cách chuyển đến cho họ dùng. Ví dụ,
như ruộng vườn nó chuyển thành tiền bạc, danh phong chuyển thành phúc lộc cho
con cháu đỗ đạt thăng quan... còn nếu không chuyển được thì đó là do đức mỏng.
Đây là lời nói thành thực. Con dựa theo kinh Phật mà nói, muốn nêu lên để cảnh
tỉnh mọi người. Chúng ta hãy mau mau sớm quay đầu tỉnh giấc “hoàng lương” mới
mong tạo được phước đức.
Đời nhà Tống, có ông Phạm-Xuân-Yểm trọn đời
lấy tâm từ thiện giúp đời. Lúc nghèo không đủ ăn ông cũng nhịn phần ăn của mình
để giúp người khó hơn. Quả báo này đưa ông đến hàng tể-tướng. Làm tể-tướng
nhưng ông vẫn giữ phận thanh bần, để dành tiền giúp đỡ dân lành. Con cháu của
ông tuân theo giáo huấn này mà sống. Kết quả, gia tộc ông ta trải qua hàng ngàn
năm, đến nay con cháu vẫn đời đời sung túc, quan lộc, phước đức hưởng không
hết.
Phật dạy, phải tu cái nhân mới có cái quả.
Nhân thiện quả thiện, nhân ác quả ác. Hôm nay mình muốn được quả thiện lành mà
không chịu tu nhân thiện lành, thì chắc chắn không bao giờ được. Người tham làm
giàu mà không thiện lành thì dầu có bạc tỉ đi nữa nó cũng tìm mọi cách để tan
biến như bọt nước vậy! Có phước, giàu có thì thấy tốt trước mắt nhưng coi chừng
bị nạn “Tam-thế-oán”. Nghĩa là khi có phước báu, danh vị, tiền bạc cứ lo tận
hưởng, tạo nghiệp, không chịu tu hành tiếp, thành thử cái phước tiêu tán nhanh
chóng. Chính vì vậy, họ khó bề thoát nạn, con cháu cũng lận đận long đong. Biết
như vậy, tuổi già rồi, cúi mong cha má hãy mạnh dạn quay đầu, dũng mãnh làm
phước thật nhiều để lót đường cho sự vãng sanh. Được vãng sanh Tây-phương là
đại phúc đức, đại thiện căn, không những cho chính cha má mà còn cho Cửu-Huyền
Thất-Tổ quá khứ, cho con cháu ở vị lai.
Muốn được vậy, già rồi thì sự nghiệp thế
gian phải tức khắc xa lìa. Tiền bạc, danh lợi, nhơn nghĩa, thị phi... phải biết
tức khắc chán chê. Em Hai Phú giúp đỡ cha má thường ngày thì hãy giúp cho em
chút ít. Trong làng xóm có ai quá khổ thì mình tằn tiện chút tiền đem cho...
Con xin bảo đảm với cha má, cha má cứ đi bố-thí đi, nếu có nghèo đói con xin
nhận chịu tất cả cho. Nếu con không đủ lo thì anh chị em, con cháu thấy cha má
có tâm từ bi như vậy, chắc chắn không ai nỡ vô tâm bất hiếu được đâu. Phật dạy
bố-thí tài được giàu có, cụ thể cứ việc thành thật thương người trong làng,
trong xóm, tìm cách giúp đỡ cho người khổ, cha má sẽ tức khắc thấy ngay kết
quả.
Quyết lòng làm thiện, thiện căn sẽ vượt
trội, phước thiện sẽ chuyển đổi hoàn cảnh trước mắt liền lập tức. Xin tin tưởng
chắc chắn như vậy! Đừng nên so đo với lòng ích kỷ của những người giàu sụ, cái
đó vô-thường như huyễn mộng, phiêu phỏng như số phận bóng nước dưới cơn mưa chứ
không có gì đâu. Xin cha má nghe lời con, làm đi để thoát nạn.
4) Là dứt khoát xả bỏ ơn nghĩa, nợ đời. Nếu
cha má không biết lo sợ cái cảnh hãi hùng của địa-ngục, cảnh đói khát của
ngạ-quỷ, cảnh ngu si của hàng súc-sanh và những cảnh giới tăm tối khác mà tìm
đường thoát nạn, thì không ai có thể cứu cha má được nữa rồi. Con xin nói thẳng,
vì con người tình chấp quá thâm trọng, chưa liễu giải được chân tướng của
vũ-trụ nhân-sinh, cho nên cứ nằng nặc bám lấy những cái tầm thường giả tạo của
trần tục để sau cùng đành gia nhập ác thú khổ nạn!
Con xin hỏi rằng, có ai dám vì một vài tiếng
khen tạm bợ để một vài năm nữa tự chấp nhận đi vào cảnh thương đau vạn kiếp
không? Cha má có dám hứa là vào trong đó bị đau không thèm than khóc, bị khổ
không thèm mong thoát nạn không? Như trong địa-ngục có cảnh đao kiếm phanh
thây, nếu một người tham tiền cứ thích lường gạt, gian lận, không sợ địa-ngục
thì hãy chỉ cảnh địa-ngục cho họ thấy. Cảnh địa-ngục ở đâu?... Bị chém một dao
cho một triệu, chém nhát thứ hai cho hai triệu, chém nhát thứ ba cho bốn
triệu... mỗi lần chém gấp đôi tiền lên. Tiếp tục chém mãi thôi. Như vậy, chỉ
trong một ngày họ trở thành người giàu nhứt thế giới. Dám không? Nếu không dám
thì hỏi rằng, cảnh địa-ngục còn ghê rợn hơn nữa tại sao không sợ?!
Con xin nhắc lại, một ngày trong cảnh địa-ngục dài bằng hai ngàn bảy trăm năm
trên thế gian. Lịch sử dựng nước của Việt-Nam ta có bốn ngàn năm, một người bị
rơi vào địa ngục từ đời Hồng-Bàng đến nay thọ cực hình chưa mãn hai ngày ở đó.
Cha má và anh chị em có dám tham những thứ: tài, sắc, danh vọng, hân hoan nhận
vài tiếng vỗ tay cho nở mày nở mặt một vài phút, rồi chịu hàng trăm đao, ngàn
kiếm phanh thây vạn kiếp dưới địa-ngục chăng?
Rất nhiều nơi không hiểu được thực tướng của
cảnh giới nên cứ nói đại, sống bừa, thác bãi... tự dựng nên những danh từ như
là: thiên-cơ, định-mệnh, tử-vi, mạng-số,.. chứ thật ra những ý nghĩa này đã
được Phật giải bày tường tận chi tiết, rõ ràng, trong định luật nhân-quả. “Nhân
duyên quả báo tơ hào không sai” chính là định-mệnh, thiên cơ, mạng số... đó. Vì
không hiểu thấu đạo lý đành phải nói đại là “bất-khả-lậu” đó thôi! Chứ thật ra
tất cả những cái đó đều do chính ta tạo tác ra rồi chính ta thọ lãnh cả. Đó chỉ
là định luật của nhân-quả. Ví dụ, như cha má đời kiếp trước chắc chắn có tu
hành, có phước thiện nên đời này mới có người hướng dẫn đường vãng sanh.
Vãng sanh là con đường đại thiện, đại phước,
nếu cha má chịu hưởng phước này thì cha má hoàn thành được tâm nguyện của vô
lượng kiếp nay, còn cha má từ chối thì tự cha má tiếp tục rước lấy đau thương!
Những đời kiếp sau nếu còn làm được con người, có may mắn lắm thì chẳng qua
cũng gặp được người tới giảng vài câu Phật pháp rồi đi, tu hành được hay không
tùy theo cha má định. Còn không may thì vĩnh viễn không bao giờ gặp lại đạo
giải thoát nữa đâu.
Phật dạy, có ba hạng người niệm Phật không thể vãng sanh:
1) Là người còn tham đắm phước-báu
nhân-thiên;
2) Là người học rộng, hiểu (chuyện thế gian)
nhiều;
3) Là người phân-biệt chấp-trước.
Phước-báu nhân-thiên là tham ngũ-dục,
lục-trần. Ngũ-dục là: tài, sắc, danh, thực, thùy; lục-trần là: sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp. Người có kiến thức rộng thuộc về pháp trần, gọi là
sở-tri-chướng. Phân-biệt chấp-trước là người ganh tị cố chấp. Những người này,
nếu không bỏ, dù có niệm Phật cũng không thể vãng sanh. Phật dạy rõ ràng minh
bạch, càng nghiên cứu kinh điển của Phật, ta càng giật mình tỉnh ngộ. Tất cả bí
mật của nhân-sinh vũ-trụ đã được Phật khai bày chi tiết từ ba ngàn năm về trước
mà ta không hay biết gì cả, cứ lầm lũi dắt nhau đi vào hầm lửa, tự thiêu đốt
chính mình. Đáng thương thay!
Trở lại với sự sơ suất khi niệm Phật. Vì
không hiểu cái tác dụng vi diệu của câu Phật hiệu, cho nên nhiều người móng tâm
cầu xin đủ thứ để sau cùng không được gì cả. Trong mấy thư trước con đề cập đến
chuyện thấy Phật, dùng câu Phật hiệu để phục vụ cho các pháp luyện khí, mở
luân-xa, luyện thần-thông... Tất cả những việc làm này không tốt đâu. Xin cha
má, anh chị, em đừng làm. Trong đó, chuyện mơ thấy Phật, Bồ-tát hiện thân rất
phổ biến. Hầu hết người có thiện tâm tu hành nhưng không hiểu lý đạo thường dễ
lầm lạc chuyện này. Chính con cũng phập phồng lo ngại cho cha má, vì nóng lòng
cầu cảm ứng mà dễ bị rơi vào. Hôm nay con nói thêm về cảnh giới này cho rõ hơn.
Xin cha má và anh chị em cố gắng hiểu thấu.
Thứ nhứt: Như đoạn trên và những thư trước
con nói là ma-chướng, oan-gia trái-chủ phá hoại để lôi mình trở lại với chúng
để bị đọa lạc. Nghĩa là, bảo mình đừng niệm Phật nữa và sống bình thường như
trước giờ để chúng có dịp trả thù, đòi nợ. Cách phá của chúng là lợi dụng lúc
ta chưa có công phu tốt, dựa theo sự dao động của tâm mà thừa cơ đột nhập để
làm thân tâm ta bất an. Muốn tránh được chuyện này thì ta đừng mong cầu là
được. Cứ một lòng thực thà, hiền lành niệm Phật, tin chắc chắn vào câu Phật
hiệu, tin chắc vào sự bảo vệ của Bồ-tát, biết chắc rằng Phật A-di-đà gia trì
cho mình để vãng sanh. Đừng mong cầu những thứ vị kỷ bất chính như tiền tài,
danh vọng, dâm tà... Cũng đừng cầu thấy Phật, Tiên, Thánh... tất cả đều để tự
nhiên. Một điều cần nhớ là trong nhiều đời nhiều kiếp rồi chắc chắn mình đã tạo
nghiệp sát rất nhiều, người đi lính thì giết người hại mạng, còn không cũng
giết hại chúng sanh để ăn. Cho nên ai cũng có nhiều oan gia trái chủ, có oan
hồn rình rập báo thù. Vì thế, ta phải hằng ngày đem công đức tu hành hồi hướng
cho họ, nguyện tu thành Phật về cứu độ họ. Có vậy ta mới an ổn tu hành.
Học Phật phải tuyệt đối tin lời Phật dạy,
đừng hiếu kỳ. Vì ta chưa thông đạo lý nên cứ thấy hay hay lạ lạ thì nhào vô làm
thử, vô tình rất dễ bị mê loạn, khó tự chủ về sau. Nếu để ý một chút ta thấy
ngay rằng, hầu hết chỉ là những pháp tu lo thu đạt phước hữu lậu. Những lý pháp
nửa vời này, gọi là “bất liễu giáo pháp”, thả lửng giữa đường mà ta không chịu
chú ý. Chư Phật và chư Tổ sư dạy, nếu chúng sanh không chịu phân biệt chánh tà,
cãi lời Phật dạy, chạy theo sự hão huyền thì bị đọa lạc, mất huệ-mạng. Vạn lần
xin thức tỉnh.
Thứ hai: Trên thực tế, pháp niệm Phật dễ
thành đạt đạo nghiệp, vãng sanh bất thối thành Phật. Nhiều người niệm Phật
trong đời họ đã thấy Phật hiện thân an ủi hay thọ ký. Rất nhiều người biết
trước ngày giờ ra đi, có nhiều người xin hẹn ngày ra đi cho thuận lợi việc sắp
xếp hậu sự. Điều này là thực. Có hai vấn đề:
1) Là người thực sự chân thành niệm Phật.
Thư này con gọi là người hiền lành niệm Phật, thực thà cầu sanh Cực-lạc, biết
buông xả vạn chuyện thế gian. Chính vì sự thành tâm này mà họ đã đạt công phu
thành thục, ngày đêm tiếng Phật hiệu không gián đoạn trong tâm, họ đã được cảm
ứng đạo giao. Phật đã chính thức xuất hiện thọ ký. Bà cụ Triệu-Vinh-Phương là
một ví dụ, bốn năm niệm Phật thì tự tại vãng sanh, hai lần thấy Phật xuất hiện
thọ ký. Có nhiều vị thấy ba lần trong đời và họ được cho biết ngày nào, vào giờ
nào Phật đến tiếp dẫn. Đây là thực, không phải giả.
2) Là người chưa có công phu niệm Phật tốt,
tâm còn lao chao đủ thứ, lòng còn tham luyến thế gian, tham - sân - si còn đầy
đủ... mà thường xuyên thấy Phật, thì đây là giả, không phải thực! Nên chấm dứt
ngay, đó chỉ là vọng tưởng tạo nên mà thôi, không nên kéo dài thêm nữa vì càng
lâu càng khó gỡ!
Hỏi rằng, làm sao phân biệt được giả-thật?
Phật nào cũng giống như nhau, làm sao cả quyết?
Đúng vậy, khó lắm! Nhưng khó với người không
tu hành, chứ còn người thành thực tu hành thì thấy rõ ràng thật hay giả. Tiêu
chuẩn chính là công phu thành thục. Người tu hành chưa thành thục nhìn vào biết
liền. Người lão thật niệm Phật, biết buông xả, muốn vãng sanh Tây-phương, dù họ
chưa được nhất-tâm-bất-loạn, cũng thể hiện ra sắc tướng sự thanh-tịnh trong
tâm. Một người được Phật thọ ký chắc chắn tiêu chuẩn tối thiểu là tâm đã có một
mức thanh-tịnh nào đó. Một khi đã được Phật thọ ký, tự họ đã khai mở nhiều
trí-huệ. Người biết tu hành thoáng nhìn là biết ngay, khỏi cần hỏi. Chính đây
là tiêu chuẩn phân biệt phải trái.
Tuy nhiên, một khi tâm chưa thanh-tịnh, hễ
nhắc thêm một chuyện thì tâm lại móng cầu thêm một chuyện làm cho khó giữ được
thanh-tịnh hơn! Cho nên, chư Tổ dạy rằng có thấy được Phật thì tốt, mà không
thấy được Phật thì còn tốt hơn nữa. Vì sao? Vì chắc ăn hơn! Nếu tâm đã
thanh-tịnh thì đâu cần Phật đến an ủi, còn nếu tâm chưa thanh-tịnh thì không
thể thấy Phật, chính thế mới biết công phu của mình vẫn còn quá kém mà ráng
tinh tấn tu hành thêm lên, ráng niệm Phật, ráng buông xả nhiều hơn. Tổ Ấn-Quang
dạy, luôn luôn phải nghĩ rằng công phu của mình còn kém thì mới thành đạt được,
là lý do này.
Như vậy, thấy Phật giả hay thực tùy theo
trường hợp. Tất cả anh chị em hoặc cha má mỗi khi thấy chuyện gì xảy ra nên cho
con biết để góp ý kiến cho vững tâm. Hãy cho con biết liền, con có thể cố vấn
được. Đừng âm thầm đắm vào đó mà nhiều khi mang họa!
Để rõ thêm vấn đề thấy Phật xuất hiện, chúng
ta cũng nên hiểu thêm về pháp giới một chút. Phật có rất nhiều thân chứ không
phải chỉ có một thân, quy tụ lại thành ba thân cho dễ nhớ, đó là Pháp-Thân
Phật, Báo-Thân Phật và Ứng-Hóa-Thân Phật. Phật Tỳ-Lô-Giá-Na là Pháp-Thân Phật;
Phật Lư-Xá-Na là Báo-Thân Phật, cảnh giới này quá cao không dám bàn tới hôm
nay. Còn Ứng-Hóa-Thân Phật thì liên quan trực tiếp đến chuyện này. Đức Thích-ca
Mâu-ni Phật là Ứng-Hóa-Thân của Phật. Có hai phần: Ứng-Thân và Hóa-Thân. Cõi
Ta-bà này hiện giờ là quốc độ giáo hóa của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, rộng đến
tam thiên đại thiên thế giới, (một thế giới là một giải ngân hà, một giải ngân
hà có hàng tỷ cái thái-dương-hệ). Một đại thiên thế giới có hàng tỉ dãy
Ngân-hà, đó là khu giáo hóa của đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Ở mỗi nơi Ngài thị hiện một Ứng-Thân chính
(hay còn gọi là Liệt-Ứng-Thân) để cứu độ chúng sanh. Tại quả đất này Ứng-Thân
của Ngài là Thái-Tử Tất-Đạt-Đa ở xứ Ấn-Độ. Như vậy đức Phật Thích-ca Mâu-ni
không phải là Thái-tử Tất-Đạt-Đa, mà Thái-Tử chỉ là một Ứng-Thân của Phật thị
hiện trên quả địa cầu này để khai đạo cứu độ chúng sanh mà thôi. Ứng-Thân này
tùy thuận theo thân thể của chúng sanh tại nơi đó.
Còn Hóa-Thân Phật là sao? Ta thường nghe nói
Phật có thiên bá ức Hóa-Thân. (Nghĩa là: 1.000 x 100 x 100.000 = 10.000.000.000
(10 tỉ Hóa-Thân)). Đó là con số tượng trưng chứ thật ra Phật có vô lượng vô số
Hóa-Thân. (Mỗi người chúng ta khi vãng sanh về Tây-phương cũng có được thiên bá
ức hóa-thân như Phật vậy). Hóa-Thân này Ngài ứng hiện khắp nơi tùy theo nhu cầu
để cứu độ chúng sanh, có lúc thì hiện nguyên hình theo ý dục của chúng sanh. Ví
dụ, cha má quán tượng Phật màu vàng kim thì Phật tiếp độ với Hóa-Thân Phật màu
vàng kim giống như tượng thờ. Người thích tượng Phật màu trắng thì Hóa-Thân có
màu trắng. Chính vì vậy mà ta nên thờ một tượng, niệm một câu Phật hiệu mà
thôi, không nên thờ nhiều hình tượng để tránh khỏi bị tạp niệm hoặc bị phân tâm
lúc lâm chung mà có thể dẫn tới mất phần vãng sanh.
Phật cũng thường âm thầm thị hiện xuống thế
gian thành những vị cao tăng thuyết pháp độ sanh, thành Bồ-tát tại gia giúp đời
hành đạo... Đây gọi là Hóa-Thân của Phật, Bồ-tát. Nên nhớ một điều, quý Ngài
tái lai xuống trần, thì tuyệt đối không bao giờ thố lộ danh tánh. Hóa-Phật
nhiều lúc cũng ứng hiện trong mộng, trong hào quang, giữa không trung trong một
khoảnh khắc rồi biến... Ví dụ, như năm 1998 lúc bốn giờ sáng, cụ
Triệu-Vinh-Phương ra giữa sân tự nhiên thấy trên hư không hào quang sáng rỡ,
đức Phật A-di-đà hiện thân thọ ký. Mấy năm trước đây ở Mỹ, khi người ta làm lễ
khánh thành tượng đài đức Quán-Thế-Âm, ngay lúc làm lễ tự nhiên trên không
trung trong vắt xuất hiện hào quang chiếu xuống cả tiếng đồng hồ, lại xuất hiện
tiếp một đám mây giống y hệt như tượng đức Quán-Thế-Âm Bồ-tát ngồi giữa không
trung. Những cảnh này người ta đều đã chụp và quay hình lại được. Tất cả hiện
tượng này đều là Hóa-Thân. Cho nên, một người niệm Phật đắc lực, tâm
thanh-tịnh, thấy được Phật thì đây chính là thấy Hóa-Thân của Phật vậy.
Thưa cha má, trong nhiều đời nhiều kiếp cha
má có tu hành tích công lũy đức, quả báo kết lại trong đời này cha má mới hưởng
được cái phước duyên đại thiện, là cuối đời cha má đã gặp được những người con
có hiếu quyết lòng lo lắng cứu độ vãng sanh. Con thành tâm khuyên cha má hãy hạ
quyết tâm niệm Phật, quyết chí cầu vãng sanh Tây-phương để về với Phật, hãy
hoan hỷ đón nhận ân huệ của đức Phật A-di-đà và chư Phật mười phương đã ban
riêng cho cha má. Quyết đi, thì chắc chắn đi được. Không đi, chắc chắn khó
thoát sự đọa lạc. Tất cả đều tùy theo sự quyết định của chính cha má.
Niệm Phật thành Phật. Cha má niệm Phật thì
nhân này là nhân Phật, chắc chắn sẽ thành Phật quả trong tương lai.
Nam-mô A-di-đà Phật.
Con kính thư.
(Viết xong, Australia
ngày 11/9/02).