Chúng ta nếu lấy hơi thở làm chuỗi, tùy theo
hơi thở mà xưng niệm Phật tức là có chỗ nương nhờ, thì đâu còn sợ: “hơi thở không
trở vào thì thuộc đời sau”!(Phi Tích Thiền Sư).
Kính thương cô,
Tu hành phải vạch ra mục đích rõ ràng. Nhờ
có mục đích sẵn ta mới khỏi bị lạc đường, tâm ta mới khỏi vướng mắc những cám
dỗ hoặc trở ngại trên đường tu tập. Thường sự thất bại không phải ở những sự cố
lớn mà chính là những trở ngại âm thầm, vô hình tướng trong tâm. Thông thường
người ta cho những sự hao mất tiền bạc, gặp tai nạn, bị bệnh hoạn... là lớn,
chứ thực ra đây chưa phải là lớn lắm đâu. Cái chuyện thực sự lớn, vô cùng lớn,
chính là sự đọa lạc hàng triệu kiếp mà mình không hề biết tới. Tại sao bị đọa
lạc? Vì không biết đường thoát thân, tâm tâm cứ dính chặt trong tam đồ lục đạo,
sanh tử luân hồi để chờ nhận lãnh nghiệp báo. Đây mới chính là chuyện lớn cần
phải được chú ý cho kiếp nhân sinh. Thực sự lớn!
Nhân thiện quả thiện, nhân ác quả ác. Tu
hành là thiện pháp, chắc chắn được thiện quả, nhưng khi bắt đầu tu hành thì đầu
tiên là không tạo ác duyên mới, không có ác nghiệp mới, chứ đâu phải dễ dàng
xóa được nghiệp chướng cũ, nợ cũ... đã được kết tập từ vô lượng kiếp đến nay.
Định luật nhân quả là có nợ có trả. Như vậy dù tu hay không tu, nợ nần chúng ta
đều phải thanh toán. Chỉ có khác nhau một điều, người không biết tu hành thì
nghiệp duyên dai dẳng, nghiệp chướng chất chồng, nghiệp báo bất tận. Đời này
phải trả hiện báo, đời sau phải trả hậu báo, đời đời kiếp kiếp tiếp tục lăn lộn
trong luân hồi, trong tam đồ ác đạo để tạo nghiệp rồi trả nghiệp. Nhân quả quả
nhân trùng trùng điệp điệp biết kiếp nào thoát ly. Còn người biết tu, thì biến
hậu báo thành hiện báo, tất cả những nghiệp báo thâm trọng thành hiện nghiệp
khinh giảm. Tu hành đúng pháp, biết y theo giáo lý của Phật mà phụng hành, thì
trong một đời này dù nghiệp chướng của mình có khả năng trả hết hay không vẫn
được thoát ly tam giới, thoát ly sanh tử luân hồi. Vì sao vậy? Vì bác Dư Thị Ky
vừa chứng minh được điều này, bác đã an nhiên thoát ly tất cả khổ hải giữa lúc
nghiệp chướng trùng trùng bao vây. Bệnh ung thư là nghiệp báo. Nghiệp chướng
kết tụ thành bệnh nan y. Nếu bất phước không gặp pháp niệm Phật thì bác cũng
phải mãn báo thân vào tuổi này, nhưng phải bị đau đớn, quằn quại, lăn lộn rồi
mới chết được. Chết rồi không biết sẽ ra sao!
Thông thường, nghiệp chướng còn thì không
thể thoát ly. Nhưng với pháp môn niệm Phật thì khác, công phu tu tập chưa đủ
thì không phá nổi nghiệp chướng, nghĩa là vẫn phải bị bệnh ung thư, vẫn phải
vào bệnh viện, vẫn phải đau bệnh. Nhưng sau cùng vẫn được vãng sanh, vẫn thoát
ly tam giới, chứ không phải chờ hết nghiệp rồi mới được giải thoát. Đây là nhờ
“Đới nghiệp vãng sanh”. Công đức đới nghiệp vãng sanh Tây-phương thật lớn vô
lượng vô biên, bất khả tư nghị. Công đức này chính yếu là do sự gia trì của
A-di-đà Phật, còn người tu tập là chỉ giữ Tín Nguyện Hạnh thật nghiêm chỉnh,
thật đầy đủ là được. Xin xác định, có tin Phật, có niệm Phật, có nguyện vãng
sanh thì tự nhiên được đới nghiệp. “Tín” là tuyệt đối tin: tin lời Phật dạy,
tin ta được vãng sanh, tin pháp môn niệm Phật, tin có Tây-phương Cực-lạc thế
giới, tin Phật A-di-đà sẽ tiếp độ ta... “Nguyện” là tha thiết nguyện vãng sanh.
Nhất định phải tha thiết nguyện hàng ngày, nhất tâm nhất ý ước muốn được về
Tây-phương Cực-lạc cho được trong đời này. “Hạnh” là nhất tâm niệm Phật, hoặc
bốn chữ “A-di-đà Phật”, hoặc sáu chữ “Nam-mô A-di-đà Phật” suốt ngày. Đây là
phương pháp nhiếp tâm, niệm Phật phải nhất thiết chuyên nhất gọi là “một đường
chuyên niệm A-di-đà Phật”, để tiến đến chỗ “nhất tâm bất loạn”, không được tạp
niệm, không được gián đoạn, không được hồ nghi. Cứ thế mà tu, chư vị Tổ-sư nói,
bảo đảm chắc chắn được vãng sanh Tây-phương Cực-lạc quốc.
Chuyện của bác Dư Thị Ky là một thí dụ tốt
cho sự đới nghiệp vãng sanh. Trong sự cảm ứng của Phật lực gia trì có Hiển Cảm
Hiển Ứng, Hiển Cảm Minh Ứng, Minh Cảm Hiển Ứng, Minh Cảm Minh Ứng. “Cảm” là cảm
cầu, cảm cơ, là sự cầu nguyện của người muốn được vãng sanh. “Ứng” là ứng hiện,
gia trì, nhiếp thọ của Phật. “Hiển” là rõ ràng, “Minh” là âm thầm không rõ
ràng. “Hiển Cảm” là chân thành niệm Phật tín hạnh nguyện đầy đủ, “Hiển Ứng” là
Phật lực gia trì một cách rõ rệt. Ví dụ, sự vãng sanh của bác Dư Thị Ky có chỗ
hiển, có chỗ minh. Về hiển cảm thì quá rõ ràng, như bác quyết tâm niệm Phật cầu
xin vãng sanh, cả gia đình của bác: chồng, con, dâu, rể... đều quyết lòng hộ
niệm cho bác. Theo sự kể lại của chồng bác là ông Đường Thọ Liệt và con là anh
Đường Tấn Hải thì trước giờ lâm chung nếu có người nào nói chuyện ngoài đời thì
bác đều gạt bỏ: “Chuyện này tôi không cần, hãy niệm Phật đi...”, hoặc có người
nói chuyện về Phật pháp, bác cũng gạt luôn: “Chuyện này tôi biết rồi, hãy niệm
Phật đi...”. Một người bệnh nặng, cận kề tới giờ lâm chung mà còn khuyên được
người khác “...hãy niệm Phật đi...” đâu phải là chuyện dễ. Đây là hiển hiện sự
tha thiết nguyện cầu vãng sanh của bác. Vừa lo hậu sự xong thì gia đình chỉ để
lại một vài người ở lại nhà hương khói, còn chồng con bay về Tịnh Tông Học Hội
để niệm Phật hồi hướng công đức. Tất cả những việc làm này rất thành tâm, đây
gọi là “Hiển Cảm” hoặc là “Hiển cơ”.
Người có lòng thành hiển cảm thì rất dễ có
hiển ứng. “Hiển Ứng” là sự hiển hiện cứu độ của Phật Bồ-tát. Ví dụ: khi bác Ky
lâm chung mùi hương bay ra, thân thể mềm mại suốt mười mấy tiếng đồng hồ, đến
nỗi năm ngày sau vẫn còn mềm mại, nước tự nhiên đổi vị ngọt ngào, v.v... Còn
“Minh Ứng” có thể là chỉ cho sự không bị quằn quại đau đớn với bệnh ung thư,
được người tới hộ niệm suốt 14 tiếng đồng hồ, không có oan gia tới phá đám, lưu
lại xá lợi, con cháu vui vẻ, gia đình hân hoan không bi lụy, bà con dòng họ trở
nên tin tưởng Phật pháp và cùng nhau đông đảo quy y Tam Bảo. Có một chuyện khá
đặc biệt hơn nữa để chỉ cho sự “minh ứng” là trong suốt bốn ngày lưu xác tại
nhà quàn để chờ hỏa táng, mỗi ngày gia đình con cháu, thân nhân, bạn đạo, đều
tổ chức hộ niệm liên tục. Trong ngày hỏa táng, tại hội trường nhà quàn thông
thường thì người ta đọc điếu văn, chia buồn, phân ưu, v.v... còn riêng đám táng
này thì người ta không cần đến những hình thức cầu kỳ, khách sáo, những câu
điếu tang lấy lệ... Theo thầy Thiện Huệ và một số người dự lễ kể lại:
-“Hội trường nhà quàn đã biến thành “Niệm Phật
Đường”. “Khoảng 60 người sắp hàng kinh hành niệm Phật vang vang chung quanh
quan tài suốt từ sáng cho đến khi xong lễ”.
Sự việc này đã làm cho nhân viên nhà quàn và
nhiều người ngoại quốc đang dự ở mấy đám tang khác phải cảm động, có nguời tự
nguyện tham gia vào cùng niệm Phật. Rõ ràng lòng thành tất ứng vậy. (Cũng nên
nói thêm rằng việc chôn cất, tẩn liệm ở đây có công ty chuyên làm việc này, chứ
không phải làm tại nhà như ở Việt Nam).
Trở lại chuyện của cô, khi tu hành mà chúng
ta bị bệnh, dai dẳng không chữa khỏi, thì nên nghĩ rằng có lẽ đây là lúc ta
đang bị nghiệp chướng, oan gia trái chủ đang phá hoại. Đây là chuyện bình
thường chứ không có gì đặc biệt. Tại sao vậy? Ví như một người mắc nợ ngân hàng
100 ngàn đô-la, phải trả từ từ 25 năm, người đó phải ở lại để thanh toán, bây
giờ lại muốn di cư đến quốc gia khác tốt hơn để ở thì chủ nợ họ phải đòi gấp.
Tương tự, oan gia trái chủ nhiều đời nhiều kiếp rất sợ chúng ta đi, cho nên
nghe chúng ta muốn vãng sanh thì có thể chúng hùa nhau tới đòi nợ chứ có gì
đâu. Muốn giải quyết vấn đề này thì cứ tiếp tục dũng mãnh tu hành, đừng thối
chí. Cuộc đời khổ lắm đừng tiếc nó làm chi nữa mà cứ mãi hụp lặn trong sanh tử
tử sanh. Tử thì quá khổ, mà sanh cũng quá khổ, lăn lóc trên trần đời nóng lạnh,
bệnh hoạn, vui buồn... một thời gian rồi cũng chết, khổ cũng hoàn về khổ. Cho
nên cố gắng tu hành để giải nợ, để thoát ly, phải đạt cho được sự vãng sanh để
vĩnh viễn thoát nợ, xa lìa cái cảnh khổ đau này. Nhất thiết đừng vì những trở
ngại nhỏ này mà chao đảo tinh thần nghen cô. Trong thư trước con nhấn mạnh đến
việc làm lành lánh ác, lấy nghiệp thiện của mình để tiêu trừ nghiệp chướng. Hôm
nay con nói về sám hối nghiệp chướng, hồi hướng công đức, tất cả những điều này
đều hỗ tương cho nhau.
“Sám Hối” là cương lĩnh chung của tất cả các
pháp tu hành. “Tu” là tu sửa; “Hành” là những hành động sai trái về ba phương
diện: thân, khẩu, ý. “Tu Hành” là tu sửa lỗi lầm. Nói cho hay hơn là “sám hối”
nghiệp chướng của thân, khẩu, ý cho được thanh tịnh, không xấu ác nữa. Tất cả
các pháp môn, về phương pháp thực hành thì khác, nhưng mục tiêu thì giống nhau,
là sửa đổi cho đến chỗ toàn thiện, toàn mỹ. “Sám” là trình bày, tự nói ra điều
lầm lỗi; “Hối” là cải sửa, tu chính cái lầm lỗi đó. “Sám hối” là tự vạch ra
những lỗi lầm của mình mà ăn năn sửa chữa, không được tái phạm lại. Sám hối có
nhiều phương pháp như là: Thủy Sám, Lương Hoàng Sám, Quán Âm Sám, Pháp Hoa Sám,
v.v... nhiều lắm. Bình thường thì có câu văn sám hối là, “Con xưa đã tạo bao ác
nghiệp, đều do vô thủy tham sân si, bởi thân miệng ý phát sinh ra, hết thảy con
nay nguyện sám hối ”. Hàng ngày nên đọc câu này để nhắc nhở rất tốt.
Nhiệm vụ của kinh sám chính yếu là vạch ra
nguyên nhân của lỗi lầm, còn nghi thức lễ sám là hình thức trợ duyên giúp cho
ta hối lỗi. Nhiều người cứ tưởng là dự lễ sám, đọc bài kinh sám thì nó sẽ giải
nạn cho mình, thành ra có hình thức sám hối mà thường thiếu cái tâm thành sám
hối, cho nên nghiệp chướng khó thể tiêu trừ. Nên nhớ định luật nhân quả không
miễn trừ một ai cả, cái lực lượng có thể tiêu lỗi cho ta chính là cái nhân địa
tốt. Phải tạo nhân tốt để hưởng quả báo tốt. Sám hối chính yếu là phải tự biết
lỗi, phải chân thành sửa lỗi, không tái phạm. Đây mới là căn bản của pháp giải
nạn.
Sám hối giải nạn phải đặc biệt chú ý tránh
những hành động sát sanh. Rất nhiều những hành động sơ ý có thể làm cho việc
sám hối không những không giải nạn mà còn kết thêm nạn. Ví dụ, con xin kể cô
nghe vài mẫu chuyện có thật, buồn cười mà ý nhị! Tháng sáu vừa rồi con về thăm
quê, có một bà chị nhờ con đến hướng dẫn niệm Phật để hồi hướng công đức cho mẹ
chồng đang bị bệnh khá nặng và dai dẳng không thể cứu chữa được nữa. Trước đó
gia đình cũng đã gởi thư hỏi ý kiến, con đã hướng dẫn cách sám hối nghiệp
chướng, thành tâm niệm Phật, tha thiết cầu sanh Tây-phương, hằng ngày hồi hướng
công đức cho oan gia trái chủ. Nghiệp chướng cấy vào thân thể thành bệnh hoạn
bất trị là do tội sát sanh gây nên. Cho nên, muốn giải nạn thì phải sám hối tội
lỗi, tuyệt đối không được sát sanh nhất là trong thời gian sám nghiệp. Những
thư này con viết rất rõ ràng, rất chi tiết, rất thành tâm, con tưởng gia đình
đã làm tốt. Nhưng có lẽ vì cuộc sống quá bận bịu mà chỉ thực hiện qua loa,
không được chính xác mấy. Khi con tới tổ chức niệm Phật cho bác, con có giảng
về pháp môn niệm Phật. Gia đình con cháu, hàng xóm... tham dự cũng khá đông,
thì có một chị trong gia đình trong lúc nghe giảng thì có chú ý lắng nghe,
miệng thì lâm râm niệm Phật, mà tay lần mò dưới chiếu để giết kiến! Khi có
người phát hiện ngăn lại thì cũng đã có một số kiến bị nghiền nát thân ngay
trong lúc đang niệm Phật. Có một lần khác, trong lúc nghỉ trưa, ông anh trong
nhà lại đem tới khoe với con một con chuột vừa mới bị sập bẫy. Anh hỏi con,
“Cậu nghĩ làm sao chuyện này, nó phá quá mà!?”. Con chưa kịp nói gì thì nghe
một tiếng “bộp”, con chuột bị đập đầu vào kệ đá chết tươi! Con đành than thầm,
“Ôi thôi! Công đức niệm Phật hồi hướng cho bà bác đã tiêu tan thành mây khói
rồi!”...
Thưa cô, con người thường làm những việc tạo
nên nghiệp chướng một cách tự nhiên không hề hay biết. Hằng giờ, hàng ngày,
hàng tháng, hàng năm... cứ tiếp tục tạo nghiệp chướng mới, chồng chất lên nhau.
Thế mà, thậm chí có người còn tự hào cho rằng mình chưa bao giờ làm điều gì bất
thiện nữa là khác.
Trong kinh, Phật thường dạy, “Trú dạ thường
niệm thiện pháp, tư duy thiện pháp, quán sát thiện pháp”. Nghĩa là, ngày đêm
phải giữ cái tâm thiện, phải suy nghĩ về điều thiện, phải quan sát để làm việc
thiện. Người tu hành có tâm lương thiện, đa phần có được hai điểm đầu, mà lại
thường quên cái điểm thứ ba: “Quán sát thiện Pháp”. Có tâm thiện, có nghĩ về
điều thiện cho nên không dám giết người, có niệm Phật, có tổ chức cầu an cho
mẹ, một tháng có ăn chay vài ngày... Làm được những chuyện này, hẳn nhiên là
còn đỡ hơn rất nhiều người khác. Nhưng xin đừng tự mãn! Trong bài giảng về mười
điều thiện, HT Tịnh Không nói rằng người làm thiện suốt đời nhưng không thấy
kết quả gì hết, rồi đâm ra nghi ngờ lời Phật, mất niềm tin, từ đó mà tâm bị
thối chuyển. Ngài nhấn mạnh, người tu hành là phải làm thiện, làm thiện phải có
cái tâm chân thành để làm, phải suy nghĩ những điều nào thiện để làm, và phải
thường xuyên coi thử việc mình làm có thực sự thiện chưa, có sơ hở gì không?
Ngài nói, “làm thiện mà không thấy kết quả thì coi chừng trong thiện pháp, quý
vị đã xen kẽ bất thiện”. Người nói thiện mà không làm thiện thì đây là hữu danh
vô thực, khỏi cần bàn thêm. Còn người có tâm thiện, có nghĩ điều thiện, có làm
thiện mà không chịu quan sát kỹ điều mình làm, thì coi chừng...! Như Ngài nói,
“ví dụ như bạn pha một ly nước cam, vô ý làm rơi chất độc vào trong đó!...”.
Người uống nước cam có pha thuốc độc thì hại
hay bổ? Người tu hành dù có tinh tấn mà không cẩn trọng lời ăn tiếng nói, không
chú ý tư tưởng, ý nghĩ, không kiểm soát đến những hành động, cử chỉ của mình,
thì thường bị nhiều sơ hở mà không hay. Đây có thể là sự vô tâm, sự mê muội, sự
tự mãn, sự tập nhiễm theo thế tục, theo tập quán xã hội, lâu dần việc ác trở
thành tự nhiên, nhiều khi còn cho rằng đó là tốt nữa là khác. Chuyện này nhiều
lắm, không kể xiết đâu. Chính vì hậu quả của sự việc này nó phá hoại công đức
phước báu của mình đến chỗ tệ hại.
Ví dụ chuyện con chuột phía trên là một điển
hình. Ở quê nhà, người ta thường giết chuột một cách tự nhiên, và cho đây là
điều tốt, có lợi. Người ta nghĩ rằng, chuột phá hoại, giết một con vật phá hoại
thì tốt chứ có gì là xấu ác đâu? Tuy nhiên, nếu suy nghĩ cho công bình thì con
người chúng ta đã quá hẹp hòi và xử sự quá nghiệt ngã đối với chúng sanh. Con
chuột vào nhà kiếm vài hạt lúa đổ, chưa hại được ai mà ta đã tử hình nó rồi,
còn mình thì thường giết hại vô số chúng sanh để ăn, để kiếm tiền, để vui chơi,
v.v... thì thử hỏi có bao nhiêu bản án tử hình cho mình mới xứng đây? Hơn nữa,
nếu hiểu thấu lý sanh tử luân hồi thì việc này nhiều khi liên quan đến chuyện
đại nghịch bất hiếu, còn nói về nhân duyên quả báo, thì hậu quả thảm khốc vô
cùng... Suy nghĩ kỹ, thật là tội nghiệp! Người không học Phật pháp làm sao thấu
hiểu chuyện này!
Con người do thiếu tu hành từ đời trước nên
đời này không đủ phước báu, thiện duyên, họ thường gặp phải những hoàn cảnh khó
khăn, không tự chủ được cuộc sống, khó tránh khỏi những môi trường tạo nghiệp.
Chuyện này rất khó giải quyết, phải cần tu hành, làm lành làm thiện cho nhiều
mới có cơ duyên chuyển đổi hoàn cảnh. Sống trong một môi trường mà con người
hầu hết đều coi thường việc sát sanh hại vật, thì chuyện tạo nghiệp trở thành
bình thường, chính vì thế mà họ cứ bị vướng mãi trong luân hồi đọa lạc.
Thường tình người ta khuyến khích việc giết
chuột, kiến, ruồi, muỗi, v.v... nay ta đem việc này ra trách thì có vẻ buồn
cười! Tuy nhiên, một khi đã biết rõ về lý nhân quả báo ứng thì chúng ta nên cố
gắng tìm cách tránh. Ví dụ, quét dọn sạch sẽ để bớt ruồi, dùng đường, bột... dụ
kiến ra ngoài, đóng cửa sớm để ngừa muỗi hoặc những loài phù du, v.v... nếu cố
gắng ta tránh được rất nhiều nghiệp sát. Đặc biệt hơn, khi lập hương án niệm
Phật để giải nạn oan gia trái chủ cho mẹ là cầu giải tỏa nghiệp chướng do bởi
sự sát sanh hại mạng mà ra, thì lại càng kiêng cữ việc sát sanh. Nếu thực tâm
làm việc này thì con cái, gia đình phải biết hy sinh chút ít thói quen hay
quyền lợi để đổi lấy tương lai tốt đẹp cho người thân mới đúng. Giết hại sanh
mạng tạo ra mối oán thù truyền kiếp, bình thời khi ta còn khỏe mạnh, tinh thần
sung mãn, chúng không làm gì được ta, nên đành âm thầm chờ đợi gần đến ngày ta
thân tàn sức kiệt mới ra tay, quyết lôi mình vào ba đường ác để trả thù. Nhưng
đây là việc đã lỡ rồi, Phật dạy cho ta phương thức gỡ nạn, bằng cách ăn năn sám
hối lỗi lầm, hồi hướng công đức, cho hai bên đều có lợi. Nếu lòng thành khẩn
sám hối, thì việc làm này chư Phật Bồ-tát sẽ cảm ứng, oan gia trái chủ cảm
thông. Ở đây, đang sám hối cầu an mà sát sanh thì thật là trớ trêu! Rõ ràng, vì
sơ ý mà thù kết thêm thù, oán càng thêm oán. Người tu hành hiểu đạo nhất thiết
phải chú ý kiêng cữ. Hôm nay con nêu lên vấn đề này ra để nhân tiện nhắc nhở
chung, đừng nên sơ ý mà gây ra trở ngại cho đường tiến tu, tương lai không tốt!
Sám hối mà nghiệp chướng có được tiêu trừ
hay không là do cái tâm có chân thành sửa lỗi hay không, còn tất cả các hình thức
chỉ là sự trợ duyên. Đây là đạo lý “nhất thiết duy tâm tạo”. Bình thường con
người dễ bị rơi vào, một là bướng bỉnh ngạo mạn để thọ nạn, hai là mê tín dị
đoan để bị nạn. Bướng bỉnh ngạo mạn không chịu phản tỉnh lỗi lầm thì đành phải
chịu nạn đã đành. Ngược lại, cũng không phải ít người thành thực tu hành nhưng
thiếu sáng suốt cũng dễ bị sai lầm oan uổng. Ví dụ, có người khi lâm nạn thì
quýnh cuống lên chạy đi cúng vái đủ các chùa, các miễu để cầu phước, cầu may,
giết hại súc vật để cúng tế thần linh cầu tai qua nạn khỏi, v.v... Thật là khổ!
Sám nghiệp đâu có thể tạo thêm nghiệp bao giờ!
Sám nghiệp chủ yếu là tự mình nói lên cái
lỗi của mình để sửa chứ đâu phải là sự cúng tế. Người biết tu thì cái công đức
nên giữ, cái lỗi lầm xấu ác phải liệng ra ngoài. Người nào thường xuyên khoe
cái hay của mình, thì dù có tu hành nhiều đi nữa, phẩm hạnh cũng khó mà cao! Vì
sao vậy? Vì cái kho tàng công đức phước báu đã mở tung ra cho thiên hạ vào lấy
hết rồi, còn gì nữa đâu mà khoe! Ngài Ấn Quang Đại Sư, vị Tổ-sư thứ 13 của
Tịnh-độ tông, dạy rằng lúc nào cũng tự nghĩ rằng mình còn yếu kém thì mới tu
hành tốt. Nghĩ mình còn yếu kém thì dễ dàng nhận cái dở của mình, khen cái hay
của người. Chính đây là một cách tiêu nghiệp chướng. Thế nhưng, người đời cứ
thích khoe khoang cái hay của mình để chịu tiêu mòn công đức, còn điều xấu thì
cứ khư khư dấu thật kỹ để tăng nghiệp chướng. Chính vì thế mà ách nạn mới khó
tiêu trừ được.
Biết vậy rồi thì bắt đầu từ đây ta hãy làm
ngược lại. Hẳn nhiên hơi khó, nhưng nếu quyết tâm, ta vẫn có nhiều cơ hội để
thực tập. Ví dụ, điển hình về cuộc đời của cụ Triệu Vinh Phương, có lần cụ than
với con cháu rằng: “Trong đời của ta làm ác nhiều lắm, nhất là sát hại loài cá
để ăn. Có lẽ vì nghiệp báo này mà thường bị đau lưng. Các con nếu thương ta thì
hãy mua cá phóng sanh cho nhiều rồi hồi hướng công đức cho ta”. Cụ Triệu Vinh
Phương 94 tuổi vãng sanh để lại một ống xương biến thành tượng Phật. Cuối đời
cụ hai lần được thấy Phật, biết trước ngày vãng sanh, tỉnh táo về với Phật...
thì lời nói này đâu phải là sự lẩm cẩm. Cụ tự kể việc ác là sám nghiệp, mua cá
phóng sanh là khuyên tu hành làm lành, hồi hướng công đức là nhắc nhở con cháu
lo tròn đạo hiếu. Rõ ràng là một câu nói của bậc đã có trí huệ mà ta không hay.
Khi giảng kinh, có lần HT Tịnh Không tự nói, “...trước khi xuất gia tôi có đi
săn bắn, trong ba năm sát hại nhiều sanh vật. Khi đọc được kinh Địa Tạng Bổn
Nguyện sợ quá không dám làm nữa...”. Đây là một việc ác, tối kỵ đối với một vị
đại Hòa-thượng, thế mà Ngài dám tự khai. Điều này đâu phải tầm thường! Kể việc
“săn bắn” là sám nghiệp, “sợ quá không dám làm nữa” là ăn năn hối lỗi, “đọc
kinh Phật” là gieo duyên Phật pháp. Ngài đã nêu cái gương sám hối cho chúng ta
theo. Thành thực nói lên điều lầm lỗi của mình chưa chắc đã bị giảm uy tín,
ngược lại nhiều khi còn tăng thêm nữa là khác!...
Cụ thể, nếu thật sự muốn sám nghiệp thì
không thiếu gì cơ hội để khai. Ví dụ, gặp người khỏe ta tâm sự: “Vì anh/chị ăn
ở hiền lành cho nên mới được khỏe mạnh, còn tôi có lẽ trong đời đã lỡ làm nhiều
lỗi lầm cho nên bị nghiệp báo, bệnh hoạn hoài. Bây giờ biết tội rồi, chỉ còn có
niệm Phật cầu xin gia trì”. Khen người chê ta, có mất gì đâu. Khen điều tốt của
người để tăng thiện tâm cho họ, chê điều sai của ta để giải nghiệp cho mình,
niệm Phật để gieo duyên lành cho chúng sanh. Một câu nói bình thường mà tạo ra
biết bao nhiêu công đức. Thế mà ít ai chịu làm, thành ra đường đời vẫn lắm
chông gai... Trong kinh Đại Tập, Phật dạy, “Đời mạt pháp vạn ức người tu, không
được một người giải thoát”. Tại sao không được giải thoát? Vì mê chấp, khăng
khăng giữ lấy nghiệp chướng, lại ưa thích xả bỏ công đức cho nên giải nạn không
được. Phật nói tiếp, “Chỉ nương theo pháp niệm Phật mới có thể ra khỏi được
luân hồi”. Ra khỏi sanh tử luân hồi là thoát nạn. Như vậy, pháp đại thiện tối
thượng để giải nạn là biết lỗi, biết sửa chữa và thành tâm niệm Phật. Đây thực
sự là sám hối nghiệp chướng vậy.
Sám hối là lợi cho mình gọi là “tự lợi”, còn
“Hồi Hướng” là lợi cho người gọi là “lợi tha”. Hồi hướng là đem công đức tu
hành chuyển đến chỗ nào mà mình mong muốn tặng. Ví dụ, “Hồi hướng Bồ-đề” là
mong cho mình được ngày giác ngộ, “Hồi Hướng Thực Tế” là gởi công đức về
Tây-phương Tịnh-độ để mình được vãng sanh, “Hồi Hướng Chúng Sanh” là bố thí
công đức của mình cho tất cả chúng sanh, mong cầu cho chúng sanh cũng được lợi
lạc, được vãng sanh Tịnh-độ. Hồi hướng cho oan gia trái chủ thuộc về sự hồi
hướng chúng sanh. Trong bài văn hồi hướng:
Nguyện đem công đức
này
Trang nghiêm Phật
Tịnh-độ.
Trên đền bốn ơn nặng.
Dưới cứu khổ tam đồ.
Nếu có kẻ thấy nghe.
Đều phát lòng Bồ-đề
Hết một báo thân này.
Đồng sanh Cực-lạc
Quốc.
Bài văn này đã có đầy đủ tất cả các pháp hồi
hướng. Tuy nhiên, để nhắc nhở mạnh hơn, sau khi hồi hướng chung, ta có thể đọc
lại bài này để hồi hướng riêng như cầu siêu cho người thân, cho oan gia trái
chủ, v.v... bằng cách đổi câu thứ hai (có gạch đít), còn những câu khác giữ
nguyên. Đây là bài hồi hướng cho gọn, dễ nhớ chứ không bắt buộc, cũng có thể
thành tâm tự nguyện hồi hướng theo nội dung tương tự là được. Cũng xin nói thêm
là tu hành, công đức mình nên hồi hướng đến khắp chúng sanh, hồi hướng càng
rộng càng tốt, đừng nên chỉ hồi hướng riêng cho cá nhân mình. Công đức là phước
vô lậu, vô hình, không thể bắt giữ. Công đức ví như ánh sáng của ngọn đèn, mình
chiếm giữ riêng thì cũng bao nhiêu đó, mình chia cho nhiều người cùng hưởng thì
mình cũng không mất chút nào, nhưng hồi hướng công đức đến rộng khắp chúng sanh
thì tâm lượng của mình sẽ quảng đại, giải tỏa được thù oán nhiều đời nhiều
kiếp. Nhờ vậy, mình được giải thoát mà oán thân trái chủ cũng được ích lợi. Khi
hết báo thân này ta vãng sanh Tây-phương thì đương nhiên trở thành bất thối
Bồ-tát, thần thông diệu dụng, với thiên bá ức hóa thân ta có thể phân thân đi
cứu độ chúng sanh, trả nợ nghiệp chướng... là chuyện dễ dàng chứ không phải là
đi quỵt nợ.
Ở đây, hàng ngày con niệm Phật, ngoài việc
hồi hướng cho cửu huyền thất tổ sớm được siêu sanh, ngày nào con cũng có hồi
hướng cho cha má, cho các cô, các chú, cho tất cả bà con, cho những người đã
nhờ tới con, cho tất cả chúng sanh. Con cũng có để tên cầu giải oan gia trái
chủ cho các cô, cho cha má, v.v... trong niệm Phật đường của Hội Tịnh Tông Úc
châu, mong cho tất cả sớm ngày giải nạn. Hỏi rằng liệu việc này có thực tế
không? Những người được hồi hướng có hưởng được lợi ích gì không? Thưa cô
chuyện này khó nói lắm, hay nói đúng ra không cần biết đến. Phật dạy phải hồi
hướng công đức cho chúng sanh để cứu độ họ thì mình cứ thành tâm làm đi, còn
phần người được hồi hướng có lợi ích hay không, đó là chuyện khác. Ví như một
người đang ở trong một căn nhà nóng bức, công đức hồi hướng là làn gió mát thổi
đến, nhưng người đó nếu biết mở cửa đón nhận thì được hưởng sự thanh lương, còn
khư khư đóng cửa thì đó là quyền của họ.
Hãy thành tâm hồi hướng công đức cho chúng
sanh, thành tâm hồi hướng công đức cho cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp, dù còn tại
tiền hay đã khuất bóng. Đó là tâm nguyện của người tu hành. Trong chuyện vãng
sanh của bác Dư Thị Ky, anh Đường Tấn Hải thực sự là một người con gương mẫu
của lòng hiếu thảo. Trước khi về lại Sydney để tổ chức thất tuần, anh ta đến
nói với con,
- Thứ bảy này tụng kinh, xin anh hồi hướng
thất tuần cho mẹ em nghen.
- Chắc chắn anh nhớ.
Anh ta thành tâm làm việc này, vì chữ hiếu
anh không ngại khó khăn, không ngại sự cầu khẩn bất cứ ai. Mỗi ngày sau giờ
niệm Phật, mọi người đều về phòng nghỉ thì riêng anh ta thường lặng lẽ trở lại
niệm Phật đường một mình tiếp tục niệm Phật. Kinh hành niệm Phật phải có người
đánh khánh dẫn chúng, chuyện này không phải dễ nhất là người mới tập, nhưng anh
Hải, dù là người mới tập, cũng xin tự nguyện dẫn khánh sáng trưa chiều tối. Anh
ta nói với con:
- Em muốn có thêm giờ dẫn khánh để có thêm công đức hồi hướng cho mẹ.
Nghe nói mà thương! Anh Hải đã phát tâm cúng
dường khắp nơi, in kinh, sang băng... bất cứ chuyện gì cần đến anh đều hoan hỷ
tham gia, mục đích là để tạo công đức hồi hướng cho mẹ. Có một bữa trưa con vô
tình mở cửa phòng của anh thì thấy anh đang ngồi xếp bằng trên giường, tay ôm
hộp đựng xá lợi của mẹ và âm thầm niệm Phật. Con nhẹ nhàng khép cửa bước ra mà
cảm động muốn rơi nước mắt.
Người con hiếu thảo là như vậy đó. Cha mẹ
tại tiền thì lo bề phụng dưỡng, hướng dẫn tu hành. Mẹ lâm chung thì quyết lòng
bảo vệ, chí tâm hộ niệm cho mẹ vãng sanh. Vãng sanh rồi vẫn cố gắng hết sức tạo
thêm công đức hồi hướng cho mẹ để lòng mình được an lạc, thanh thản, một đời
trả tròn đại hiếu làm người. Anh ta hỏi thăm từng chút, nhờ từng người, tranh
thủ từng phút thời gian, đi xa hàng ngàn cây số... để làm việc thiện, âm thầm
lặng lẽ tạo công đức gởi về cho mẹ. Thật là một tấm gương hiếu thảo đáng khen!
Nói chung lại, nếu thực tâm tu hành thì nên
nghe theo lời dạy của Tổ Ấn Quang, “...phải nghĩ rằng công phu tu tập của mình
còn yếu...” mà cố gắng tinh tấn tu hành nhiều hơn. Phải biết nhiều đời nhiều
kiếp rồi chắc chắn mình đã tạo nhiều nghiệp chướng, đời này có trả cho mấy đi
nữa cũng khó mà hết. Thế thì đau bệnh chút ít có ăn nhằm gì! Hàng ngày nên nhớ
phát lồ sám hối, phát nguyện tu sửa, lo tích công tồn đức hồi hướng cho chúng
sanh. Một lòng tin Phật, chuyên tâm niệm A-di-đà Phật, quyết cầu sanh Tịnh-độ.
Giữ cái tâm này vững vàng, thì một báo thân này thôi ta được đới nghiệp vãng
sanh, bất thối thành đạo Bồ-đề.
Nam-mô A-di-đà Phật,
Kính thư.
(Viết xong, Úc châu 10/ 02/2003).