Cô Sáu kính thương,
Năm mới con viết thư về thăm cô và tất cả
các em. Cầu Phật gia trì cho cô và gia đình thân tâm an lạc. Đúng ra con định
viết thư cho Cô lâu lắm rồi, nhưng không viết được. Hằng ngày thời khóa niệm
Phật đã chiếm hết thời giờ, công việc riêng chỉ còn dành vài mươi phút lúc nghỉ
để làm. Mới đây con lại không được khỏe lắm, cho nên trong khoảng thời gian này
con không liên lạc được với ai cả. Vừa rồi qua điện thoại, vài phút nói chuyện
con nghe cô nói còn đang bệnh, cô cảm thấy buồn vì niệm Phật nhiều lắm mà sao
không thấy giảm bớt? Không biết cái nghiệp chướng gì mà nặng dữ vậy? Bao giờ
mới hết nghiệp đây? Mong rằng trong năm mới cô chóng được bình phục, vui hơn.
Học Phật, nếu thấu rõ đường đi, thấy rõ kết
quả thì mình vui nhiều lắm. Còn nếu mờ mịt thì sống thấy khổ, tu hành cũng dễ
chao đảo, dễ mất niềm tin, mất nguồn vui. Hôm nay, trước tiên con xin kể cho cô
một câu chuyện vui, chuyện một bà bác vừa mới vãng sanh tại đây. Vãng sanh là
sống mà đi vãng sanh, vui vẻ cho mình, vui vẻ lớn lao cho gia đình. Hơn nữa,
nghe một câu chuyện vãng sanh nhiều lúc giải tỏa được nhiều tâm trạng của chính
mình, nhờ vậy có lẽ cô được vui theo chăng?…
Bác này tên thật là Dư Tú Chi, nhưng có lẽ
do sự phát âm của người Tiều hơi lơ lớ cho nên sau khi chuyển dịch qua tiếng
Anh thành ra là Du Thi Ky (Dư Thị Ky). Bác Ky vãng sanh vào ngày 08/12/2002 tại thành phố Sydney, Úc Châu. Gia đình
bác này con biết, có gặp bác mấy lần trong khóa niệm Phật trước, lần mới nhất
vào tháng 10/2002. Sau một tuần lễ vãng sanh, con gặp được gia đình bác Dư Thị
Ky, chụp được hình xá lợi, gặp được một số người hộ niệm cho bác và gia đình
đang tới đây niệm Phật, cho nên chuyện này hay hơn một chút. Ngay vừa mới đây
lại thêm một bác niệm Phật vãng sanh nữa, tên là Vương Thị Hưu, người Việt Nam gốc Hoa.
Bác Hưu ở Canada, bác không có về đây niệm Phật, mấy tháng trước con gái của
bác, pháp danh là Minh Đạo, tới đây nhập khóa tu mấy tháng, rồi trở về Canada
vào tháng 11/2002. Con gái của bác đã hướng dẫn cho mẹ niệm Phật và được vãng
sanh. Cô Minh Đạo đã điện thoại qua báo tin cho tụi con hay, “Mẹ em vừa vãng
sanh rồi, đã an nhiên niệm Phật đến phút giây cuối cùng rồi mỉm cười ra đi, xin
nhờ anh chị để giùm bài vị lên bàn thờ Hội Tịnh Tông…”. Chuyện vãng sanh nhiều
lắm, kể không hết đâu, có dịp từ từ con sẽ kể thêm cho cô nghe sau. Tất cả
những chuyện này con kể hoàn toàn sự thật, chính con đã biết qua, đây là sự
chứng minh rất cụ thể. Hãy tin tưởng, vững tâm tu hành, cứ thẳng một đường đi
tới Tây-phương Cực-lạc, đừng nên chao đảo tinh thần hoặc hiếu kỳ chạy lòng vòng
mà cuối cùng khó thoát khỏi nạn. Một khi đã bị chìm đắm trong dòng nghiệp lực,
rớt lại trong lục đạo sanh tử luân hồi thì còn khổ đau vô lượng kiếp, tương lai
khó tránh khỏi cảnh đọa lạc.
Bác Dư Thị Ky, người Việt gốc Hoa, người lùn
thấp hơi tròn, ít nói và hiền lành, sinh năm Ất Hợi, thọ 68 tuổi, trước đây gia
đình ở tại thị xã Cần Thơ, bán tạp hóa. Gia đình được qua Đức quốc năm 1985, di
cư qua Úc 1988. Năm 2001, bác Ky đã quy y Tam Bảo và được Ngài Tịnh Không cho
pháp danh là Diệu Âm. Bắt đầu từ đó bác niệm Phật, kết quả đã được vãng sanh
vào ngày 05/11/ âm lịch, tức là ngày 08/12/2002 tại Sydney, lưu lại tất cả 38
xương xá lợi, hiện số xá lợi này đang được người con của bác tên là Đường Tấn
Hải và gia đình đem xuống đạo tràng Tịnh Tông Học Hội Brisbane. Hiện đạo tràng
đang mở khóa kiết thất niệm Phật 10 tuần nên họ đề nghị giữ số xá lợi này 100
ngày để hồi hướng công đức cho bác và cũng để cho mọi người chiêm ngưỡng rồi
hoàn trả lại cho gia đình sau. Thật quả là một chuyện may mắn lại gặp chuyện
may mắn hơn.
Vào tháng 10/2002 bác tới đạo tràng này niệm
Phật khoảng hai tuần rồi về lại Sydney.
Đúng ra bác ở lại cho hết khóa niệm Phật, nhưng vì chồng của bác là bác Đường
Thọ Liệt bị cảm ho hơi nhiều nên không thể ở lại lâu hơn. Đây là lần thứ hai
bác tới đạo tràng niệm Phật, và cũng là lần cuối cùng con gặp bác. Từ lúc bác
khởi sự niệm Phật cho đến ngày vãng sanh đâu khoảng hơn một năm. Sau khi trở về
lại Sydney, bác bị bệnh phải vào bệnh viện, bác sĩ phát hiện ra bác bị ung thư,
chuyển qua gan đã tới thời kỳ cuối không còn chữa được nữa. Năm ngày trước khi
ra đi, gia đình xin đem về nhà để tự lo liệu. Một ngày trước khi lâm chung,
thấy bác quá yếu nên gia đình mời một số người niệm Phật tới tính chuyện hộ
niệm. Một đêm trước phút lâm chung, người ta khởi sự thay phiên nhau hộ niệm
liên tục suốt đêm và cuối cùng bác lặng lẽ ra đi vào khoảng 4 giờ sáng trong
tiếng niệm Phật của con cháu và những người hộ niệm. Gia đình để nguyên như vậy
và tiếp tục niệm Phật cho đến 6 giờ chiều mới gọi nhà quàn tới làm việc. Thời
gian sau khi lâm chung bác được hộ niệm liên tục, không gián đoạn, là hơn 14
tiếng đồng hồ mới động đến thân thể để tẩn liệm.
Cuộc vãng sanh này đầy may mắn! Nhiều tướng
lành đã hiện ra như: 1) An lành ra đi với bệnh ung thư. Nên biết rằng, với bệnh
ung thư gan, người chết phải trải qua những cơn đau dữ tợn, bác sĩ đã báo trước
những hiện tượng này sẽ xảy ra cho gia đình chuẩn bị tinh thần và gởi rất nhiều
thuốc vừa uống vừa chích để dùng ngăn bớt cơn đau cho bác khi lâm chung, nhưng
tất cả thuốc giảm đau đều không cần sử dụng đến. Bác đã an nhiên vãng sanh. 2)
Phút lâm chung có hương thơm. (Nhiều người nghe được hương thơm phát ra ba lần:
một là lúc lâm chung, lần thứ hai vào khoảng trưa tức là sau khi lâm chung cỡ 8
tiếng, lần thứ ba vào lúc nhân viên nhà quàn tới làm việc). 3) Sau khi lâm
chung những chai nước nấu chín để trong tủ lạnh tự nhiên có vị ngọt như có pha
thêm đường. 4)Hơn 14 tiếng đồng hồ sau khi tắt thở, thân xác mềm mại, hoàn toàn
không cứng. Người ta đặt hai tay bác chéo trước bụng để bồng xác lên thì hai
tay cứ rơi xuống đu đưa như người đang ngủ. Sự việc này làm cho người thợ liệm
vô cùng ngạc nhiên và phát biểu rằng, “30 năm làm trong nghề, đây là lần đầu
tiên tôi gặp chuyện lạ lùng như thế này”. 5) Năm ngày sau, trước khi chuyển đi
thiêu, người ta mở quan tài cho người nhà nhìn mặt lần cuối, thì thân xác vẫn
còn mềm. Có một người đem phúng điếu một thẻ nhỏ, có viết sáu chữ Hán bằng vàng
“Nam-mô A-di-đà Phật”, người ta mở miệng bác ra đặt vào một cách dễ dàng. (Đây
không phải là lễ tiết, chỉ vì người ta phúng điếu nên đặt vào miệng cho gọn mà
thôi). 6) Khi thiêu xác, thu nhặt được 38 hạt xá lợi. 7) Sáu chữ Nam-mô A-di-đà
Phật bằng vàng rất mảnh, khi thiêu xong, người ta nhặt lại được 3 chữ không
tiêu mất. 8) Đôi bông tai bằng vàng giả, có hai hột giả, sau khi thiêu đôi hột
vẫn còn nguyên vẹn và trở nên óng ánh như kim cương. Thật là lạ!
Sau khi lo hậu sự xong, chồng, con và người
dâu tương lai của bác bay lên Brisbane
để dự khóa tu. Thông thường họ phải ở nhà làm tuần 49 ngày, nhưng ở đây, mọi
người đều nghĩ rằng niệm Phật hồi hướng công đức thiết thực hơn, cho nên con
mới có dịp tiếp xúc được họ trong khung cảnh… “niềm vui còn hiện trên nét
mặt…”. Thực sự đây là niềm vui! Một đám tang khác với nhiều đám tang bình
thường: không có tiếng khóc, không có nét buồn, không có nỗi bi thương, mà tất
cả đều hoan hỷ. Anh Đường Tấn Hải tâm sự, “…em vui lắm, má em vãng sanh được là
nguồn vui lớn nhất của gia đình em và của chính em. Em hoàn toàn không thấy
buồn mà còn rất là vui mừng. Người chị của em, tên là Đường Yến Kiều, là người
yếu đuối nhất, dễ khóc nhất, nhưng nhìn thấy cảnh tượng linh hiển đó chị cũng
vui, đã thật sự tin tưởng và quyết tâm niệm Phật…”. Có một cô gái trẻ, 25 tuổi,
tên là Khưu Đức Ngân, một trong những người hộ niệm, cô ta theo mẹ xuống đạo
tràng kiết thất niệm Phật, con hỏi:
- Nguyên nhân nào mà cháu lại về đây dự khóa
tu vậy?
- Cháu thấy niệm Phật linh quá chú ạ, cho
nên cháu xin theo mẹ về đây niệm Phật”.
Niệm Phật linh quá! Một cô bé hồi giờ không
biết niệm Phật nay cũng phát tâm niệm Phật. Bác Đường Thọ Liệt, 78 tuổi, chồng
của bác Ky, khi chứng kiến hiện tượng vãng sanh của vợ, bác đã hạ quyết tâm
niệm Phật, quyết lòng buông xả để cầu nguyện được vãng sanh. Đầu tháng 01/2003
HT Tịnh Không tới Sydney, anh Hải đã gọi tất cả người nhà, bà con trong dòng
họ, đến mấy chục người, đều đến xin quy y Tam Bảo, và cũng được HT cho chung
một pháp danh: DIỆU ÂM. Phải chăng, một người vãng sanh là tự nhiên cứu được
tất cả nhiều người khác là vậy!…
Bác Dư Thị Ky thật là người có phước. Theo chỗ con biết, thời gian kiết thất
không nhiều, thế mà kết quả tốt đẹp thật quá bất ngờ! Bác Ky hiền lành chẳng
biết gì nhiều về Phật pháp, chỉ biết nghe lời khuyên của con cái mà niệm Phật
một thời gian quá ngắn đã đương nhiên hưởng được một đại phúc báu. Cái đại phúc
báu này phần căn bản là do bác niệm Phật, nhưng điều quan trọng chính yếu là do
công đức của gia đình và các đạo hữu hộ niệm, nhất là anh Đường Tấn Hải, một
người con còn trẻ mà hiếu nghĩa, tin Phật, quyết lòng bảo vệ mẹ mình cho đến
ngày vãng sanh Tây-phương. Chính nhờ hộ niệm mà bác Ky đã hưởng được sự đại
lợi, một đời viên mãn đạo quả.
Cho nên sự hộ niệm vô cùng quan trọng. Những
người lớn tuổi mới bắt đầu tu hành, không đủ điều kiện niệm Phật đến nhất tâm,
nếu sơ ý không lo chuẩn bị sự hộ niệm lúc lâm chung khó có thể tránh khỏi những
trở ngại bất ngờ vào giờ phút chót. Nên nhớ, giải thoát hay đọa lạc xảy ra
trong tích tắc, họa hay phước chênh nhau từng ly. Hai tiếng “vãng sanh” nói ra
thì đơn giản, nhưng giá trị của nó phải trả bằng hàng triệu kiếp, vô lượng kiếp
tu hành, chứ không phải tầm thường. Nó quý báu không gì so sánh được đâu. Cho
nên, người niệm Phật nhất định phải chú ý đến chuyện này, phải tự tạo môi
trường thích hợp để niệm Phật, phải chuẩn bị lực lượng hộ niệm cho mình ngay từ
bây giờ, đừng nên chần chờ. Thường ở nhà riêng niệm Phật hay bị giãi đãi, cho
nên nếu có thể, nên lập thành nhóm, hoặc mở Phật Đường nhỏ để hội tụ nhau niệm
Phật, vì nhờ lực của số đông mà bảo vệ và khuyến tấn lẫn nhau. Riêng con cái
trong gia đình hãy một lòng hiếu hạnh, phải hạ quyết tâm bảo vệ người thân. Như
anh Đường Tấn Hải là cái gương đại hiếu rất đáng khen ngợi, anh đã quyết tâm hộ
niệm và đã cứu độ được người mẹ của mình. Trên đời này không có sự hiếu hạnh
nào lớn hơn việc này đâu. Con cái, nếu thật sự có hiếu, nhất định phải thực
hiện chuyện này cho kỳ được, không thể từ khước, không thể nại hà khó khăn.
Người tin Phật phải làm đã đành, người không có lòng tin vào Phật pháp, nhưng
chắc chắn chính họ không biết lý đạo nào để theo, thì khi biết được có đường
cứu cha mẹ cũng phải làm theo Phật để cứu cha mẹ trước, rồi mọi chuyện khác tính
sau. Lấy đạo nghĩa “hiếu dưỡng phụ mẫu” làm trọng, nhất định phải cần cẩn thận
chu toàn phận làm con chứ không thể hồ đồ, tự cao ngã mạn, vô ý làm những điều
bất cẩn mà trở thành kẻ đại nghịch bất hiếu. Nên nhớ tội đại nghịch bất hiếu
nặng lắm, muôn đời muôn kiếp không rửa sạch đâu. (Con sẽ trở lại chuyện này,
xin xem thật nhiều những thư con nói về sự hộ niệm trước đây). Phải nhớ, rõ
ràng vãng sanh Tây-phương Cực-lạc thế giới là sự thật. Từng tháng, từng năm,
đều có người niệm Phật vãng sanh về Tây-phương. Nguyện cầu sao cái đại phúc báu
này xảy ra trước mắt những người Việt ở quê nhà để có dịp cứu độ được vô số
chúng sanh còn đang triền miên chạy theo con đường sai lạc, để chịu khổ đau bất
tận.
Khi về quê, con nhìn thấy người cô hiền từ
của con bị khổ vì chứng bệnh khó trị, “no hơi chướng bụng”, con thấy thương cô
nhiều lắm mà không biết làm sao được. Mang cái thân nghiệp báo thì nó phải trở
thành cái cục nợ báo hại chúng ta. Riêng con, cũng không được khỏe lắm đâu, nên
hơn một năm qua con không làm việc nữa để dưỡng bệnh. Vừa rồi chuyển qua dùng
bằng thuốc bắc, con cảm thấy đã đỡ hơn rất nhiều. Thôi bệnh của con khỏi cần
chú ý tới, “nó” bệnh mặc cho nó bệnh, riêng “chính con” không bệnh là được. Nói
vậy cô có hiểu không? Còn bệnh tình của cô cũng khá dai dẳng, nếu thuốc tây
không đủ sức trị, con nghĩ cô nên tìm tới vị đông y sĩ nào nổi tiếng khám và
dùng thuốc bắc thử coi. Dùng thuốc bắc không nhanh như thuốc tây, nhưng nó điều
hòa được thân mạch và kết quả có lẽ khả quan hơn thuốc tây nhiều đó cô à.
Thưa cô, đã mang thân xác ngũ ấm thì sanh
lão bệnh tử làm sao chẳng phải bước qua. Thực tế mà nói, bệnh hoạn có nhiều
bệnh bác sĩ chữa được, có nhiều bệnh bác sĩ đành bó tay. Những bệnh do trái
gió, trở trời, thân thể bất hòa… thì thuốc men có thể điều phục được. Còn những
bệnh không tìm ra nguyên nhân, hoặc những bệnh nan y thì bác sĩ phải chịu thua,
không có thuốc thang nào trị được cả. Đây có thể gọi là những bệnh nghiệp
chướng. Cô nói, “Tại sao mình tu hành cũng khá, niệm Phật cũng nhiều, mà nghiệp
chướng vẫn bám theo quấy nhiễu? Biết bao giờ mới hết nghiệp đây?…”.
Cô ạ, theo pháp Phật mà nói, đã mang cái
thân sanh vào cái thế giới Ta-bà này đều là do nghiệp duyên dẫn dắt đến. Nghiệp
duyên này phức tạp lắm, không đơn giản đâu. Có nghiệp chướng thì có nghiệp báo,
bệnh hoạn là do quả báo của nghiệp chướng mà ra. Trong vô lượng kiếp đến nay
chúng ta thường xuyên tạo nghiệp, cho nên nghiệp chướng của chúng ta lớn lắm.
Không những thế, càng ngày nghiệp chướng càng nặng, đời này nặng hơn đời trước,
đời sau sẽ nặng hơn đời này, chính vì thế mà ta bị kẹt mãi trong vòng luân hồi
sanh tử để trả nợ. Cho nên, muốn chấm dứt luân hồi thì ta phải chấm dứt tạo
thêm nghiệp. Chấm dứt bằng cách nào? Hễ “Mê” thì tạo nghiệp, “Giác” thì đoạn
nghiệp. Làm ác là “Mê”, làm thiện là “Giác”. Căn bản của Phật giáo là “Chư ác
mạc tác, chúng thiện phụng hành”. Không làm những điều ác, phải làm những điều
thiện lành, đó chính là đoạn nghiệp, là giác ngộ vậy.
Tuy nhiên, “Giác” còn có cái cao hơn gọi là
“Chánh Giác”. Cao hơn Chánh Giác còn có “Chánh Đẳng Chánh Giác”. Chánh Đẳng
Chánh Giác lại còn thấp hơn “Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Mỗi bậc đã cao,
lại còn có bậc cao hơn. Người tu hành đạt được một phẩm hạnh đã quý, nhưng vẫn
còn có những phẩm hạnh cao quý viên mãn hơn. Cho nên, muốn thành đạt đạo quả
phải rất chú ý là mình đang tu ở cấp nào, cái chứng đắc cuối cùng là gì, chứ
không phải tu là thành Phật được đâu. Trong việc hành trì, hoặc là phải biết
sâu vào lý đạo để tu, nếu không hiểu nhiều về lý đạo thì nên thành tín dựa theo
chân thiện tri thức, chứ không nên bừa bãi được. Trong đó, việc tự mình tìm
hiểu cho thấu suốt lý đạo thì bấp bênh lắm, chưa chắc những gì mình hiểu là
đúng với chân tướng sự thật. Hãy khiêm nhường, thấy mình còn non kém mà tin
tưởng vâng theo thiện tri thức chân chính có lẽ dễ dàng hơn. Trong đời con,
được cái may mắn đã gặp được HT Tịnh Không, lời pháp của Ngài khai được trí huệ
của con. Con cứ một lòng tin tưởng, y theo pháp của Ngài tu hành, có lẽ như vậy
mà tiết kiệm vài ba đại A-tăng-kỳ kiếp cũng nên…
Giác ngộ làm thiện lành là căn bản của sự tu
hành, đây là phương tiện khởi đầu dẫn dắt một chúng sanh đang mê muội vào đường
đạo đức. Trong xã hội mạt pháp loạn ly này, người “Giác” được là quý, nhưng một
khi hiểu thấu đạo lý thì phải biết đó là căn bản nhứt, chứ chưa phải là đủ,
đừng nên ngừng chân ở đó. Trong kinh Phật nói rằng, người nào còn tham phước
báu nhân thiên thì không có quả báo giải thoát. Giác ngộ làm lành lánh dữ thì
tốt hơn là mê muội làm ác, nhưng vẫn còn trong lục đạo. Làm thiện nhiều được
hưởng phước ở tam thiện đạo, chưa vượt qua khỏi tam giới. Chánh Giác mới có thể
vượt qua tam giới. Chánh Giác đạt đến bốn hàng thánh A la hán, không còn sanh
tử nữa, được chứng vào Niết Bàn tịch tĩnh. Đây là những pháp môn của Phật để
lại cho các vị muốn tự tu tự chứng trong những giáo tông nguyên thủy, nói chung
gọi là Phật Giáo Tiểu Thừa. Vì tự lực chứng đắc cho nên nó đòi hỏi công phu rất
nhiều mới mong thành đạo nghiệp.
Chánh Giác là Tự Giác, tự giác ngộ cho mình.
Còn “Chánh Đẳng Chánh Giác” là phẩm hạnh của chư vị Bồ-tát. Bồ-tát là dịch âm
tiếng Phạn. “Bồ” là “Bồ-đề” nghĩa là giác ngộ; “Tát” là “Tát Đõa” là hữu tình.
“Bồ-tát” là bậc “Đại giác hữu tình”, có “Tự Giác”, có “Giác Tha”, của bậc Đại
Thừa Phật giáo. Bồ-tát có Bồ-tát tại gia và Bồ-tát xuất gia. “Chánh Đẳng Chánh
Giác” cao hơn Chánh Giác, bao gồm 52 phẩm vị Bồ-tát, từ thập Tín, thập Trụ,
thập Hạnh, thập Hồi Hướng, thập Địa, Đẳng Giác Bồ-tát và Diệu Giác Bồ-tát
(Phật). Đó là 52 đẳng cấp từ Sơ Tín vị Bồ-tát cho đến ngày thành Phật. Người
tại gia hay xuất gia đều có thể tu theo đại thừa Phật pháp, và đều có thể viên
thành Phật đạo. Đây là con đường dành cho các vị thượng căn thượng trí, các vị
Bồ-tát tu hành. Phật dạy nhất thiết duy tâm tạo, tâm cầu phước báu thì lạc vào
nhân thiên lục đạo, tâm cầu A la hán thì chứng quả A la hán, tu hạnh Bồ-tát thì
thành Bồ-tát. Tuy nhiên, đã là pháp môn tự lực thì Phật chỉ có thể chỉ đường,
còn tự mình phải thắp đuốc đi lấy, bao nhiêu A tăng kỳ thời gian tự lo sắp xếp.
Pháp giới sâu rộng, pháp môn vô lượng vô biên, thời gian vô cùng vô tận, trong
một kiếp này không dễ có thể thành tựu những cảnh giới đó được!
Ấy thế, một người vãng sanh về Tây-phương
Cực-lạc của Phật A-di-đà bảo đảm một đời thành bậc bất thối chuyển, gọi là
A-Duy-Việt-Trí Bồ-tát, năng lực tương đương với hàng Bồ-tát Thất Địa trở lên.
Bất thối chuyển có nghĩa là khi chứng đắc một phẩm vị rồi từ đó cứ tiếp tục
tăng trưởng cho đến quả vị Phật chứ không bị sụt xuống, chính vì thế mà thời
gian thành Phật nhanh. Còn thối chuyển là hễ tinh tấn tu hành thì được tăng
lên, không tinh tấn thì bị rớt xuống phẩm thấp hơn. Chính vì bị thối chuyển mà
thời gian tu hành bị kéo dài, tiến tiến thối thối vô lượng kiếp… Cho nên công
đức vãng sanh Tây-phương thật là một điều không thể nghĩ bàn. 48 lời nguyện của
Ngài nói rõ ràng, Ngài thề rằng nếu Ngài không thực hiện được chuyện này Ngài
không thành Phật. Nay Ngài đã thành Phật 10 kiếp rồi, cho nên tất cả lời nguyện
đều đã trở thành sự thực.
Nói thì dễ lắm, còn niệm Phật cho vãng sanh
thì khó hay dễ? Xin cô đọc lại chuyện bác Dư Thị Ky thì tự hiểu. Cái chứng đắc
của bác chưa chắc một người tu hành suốt kiếp đã sánh bằng. Trong kinh A-di-đà,
Phật dạy rằng, một người niệm Phật từ một ngày đến bảy ngày, nhứt tâm bất loạn
thì được. Nhiều người có đọc kinh, nghiên cứu giáo lý, họ lo lắng rằng cảnh
giới “Nhất tâm bất loạn” khó quá! Đúng vậy, không dễ gì đạt đến cảnh giới này
đâu. Nhưng thực tế, vãng sanh Tây-phương Cực-lạc, đúng như kinh Phật nói, thì
nhiều người đã thực hiện được rồi, trước kia và hiện giờ đều có, tương lai cũng
sẽ có. Như vậy thì chắc chắn phải có cái nguyên nhân của nó. HT Tịnh Không
giảng, danh từ “Nhất tâm bất loạn” là ý nghĩa trong kinh “Phật thuyết A-di-đà”
do Ngài Cưu Ma La Thập dịch ra, hàm nghĩa chỉ cho sự gia trì của Phật A-di-đà
khi lâm chung, đưa cảnh giới “Niệm Phật Thành Thục” lên thành “Nhất tâm bất
loạn”.
Trong kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy chỉ cần
“Nhất Tâm Chuyên Niệm”, nghĩa là một đường chuyên tâm niệm Phật, thì niệm được
10 niệm trước khi lâm chung là được vãng sanh. Niệm 10 câu Phật hiệu ai mà niệm
không được. Nhưng thật đáng tiếc, người ta không chịu tin, không thèm niệm. Như
vậy, không được vãng sanh là vì người ta không chịu niệm, không tập niệm, cứ để
cái tâm chạy theo chuyện thế gian vô thường, tham sân si, cống cao đố kỵ… cho
nên sau cùng phải chấp nhận lăn lộn khóc than trong ba đường ác hiểm. Đó là tại
vì chúng sanh thiếu phước mà phải chịu thua thiệt đó thôi.
Niệm Phật là tu thành phẩm vị “Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác”, tức là tu thành Phật. Niệm Phật thành Phật. Nhân Phật
thì quả Phật, nhân quả tương ưng. Các vị Cổ Đức thường nói, đây là pháp môn
phương tiện trong phương tiện, viên đốn trong viên đốn, đại thừa trong đại
thừa. Nói gọn lại, là pháp “Nhất thừa”, vượt ra khỏi sự đối đãi giữa tiểu thừa
và đại thừa. Một pháp môn phổ độ tất cả chúng sanh, thượng-trung-hạ đều có
phần, phàm Thánh đều bình đẳng thành Phật. Thật là một pháp môn rất khó tin,
không thể lý luận được! Phật nói, chúng sanh không thể hiểu nổi đã đành, chư vị
Bồ-tát cũng phải lấy lòng tin để đi, chứ không thể luận giải. Chỉ có Phật với
Phật mới hiểu được cái bí quyết trong câu “Nam-mô A-di-đà Phật” mà thôi. Cho
nên chư Tổ dạy, người nào tin tưởng vững chắc, y giáo tu hành, người đó thành
công. Không tin tưởng nhất định khó có phần!
Trở lại chuyện thọ bệnh, Phật dạy rằng, cái
quả báo được thân thể khỏe mạnh trường thọ là do cái nhân bố thí vô úy. “Vô” là
không; “Úy” là khủng bố, sợ hãi, uy hiếp, chỉ chung cho tất cả những hành động
não hại gây đau thương cho chúng sanh. Nói cách khác, “Vô Úy” là không não hại
chúng sanh, là tâm từ bi hỷ xả. Bố thí vô úy là giúp đỡ, an ủi, thương yêu,
chúng sanh. Nên nhớ, chúng sanh là muôn loài chứ không phải chỉ có loài người.
Những người trong đời này thường đau yếu, tất cả đều do bởi trong quá khứ, hoặc
đời này hoặc kiếp trước, mình có não hại chúng sanh, như bắn chim, bắt cá, giết
gà, giết kiến, v.v… thậm chí có khi còn giết người nữa là khác, ví dụ như
nghiệp lính chẳng hạn, v.v… Quả báo của sự giết hại chúng sanh đã cấy vào thân
thể thành bệnh hoạn, đau ốm. Nghiệp sát nhẹ thì mang những bệnh thông thường,
nghiệp sát nặng thì chịu những chứng bệnh nan y, suốt đời đau đớn, thọ mạng
ngắn ngủi. Đây chỉ là định luật nhân quả báo ứng, chúng ta nên tự nhiên nhận
lãnh. Không những thế, hãy vui vẻ trả nợ để nghiệp chướng mau chóng tiêu trừ,
cho báo thân này chung cuộc nhẹ nhàng thoát ly.
Bệnh chủ yếu do nghiệp sát mà thành. Cho
nên, muốn khỏi thọ bệnh chúng ta phải chấm dứt sát sanh và lo hoàn trả nợ cũ.
Chấm dứt sát sanh là tự mình không giết hại sanh vật, không xúi người khác
giết, không vui mừng khi thấy người khác giết, đừng để một con vật nào vì mình
mà mất mạng. Hoàn trả nợ cũ là sám hối nghiệp chướng, tu hành tạo công đức hồi
hướng cho oan gia trái chủ. Trong tất cả ác nghiệp, thì nghiệp sát sanh rất
nặng. Hầu hết giới cấm của Phật, đều đem giới sát sanh lên hàng đầu. Tất cả oan
gia trái chủ, oán thân thù nghịch trong đời đều là quả báo của việc sát sanh
hại mạng. Những thứ này làm trở ngại con đường tu hành, trở ngại con đường
thoát ly, phá hoại thân tâm bất an, lôi kéo mình vào tam ác đạo. Nặng hơn nữa,
nghiệp sát là mầm mống của oán thù truyền kiếp, gây nên chiến tranh tương tàn
khốc liệt.
Hôm tháng sáu năm ngoái con về thăm quê, anh
Bốn muốn con lên An Khê thăm chơi, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, sau cùng con không
đi. Tình anh em lâu lắm mới gặp, không đi thì cũng buồn, nhưng một là nhìn thấy
bịnh tình của cha chưa khỏe hẳn con chưa yên lòng để đi dù là một ngày, hai là
con sợ tạo thêm nghiệp sát sanh. Con thì ăn chay, một đĩa đậu hũ là đủ rồi.
Nhưng con biết, nhân chuyến ghé thăm này anh Bốn có thể nhẹ nhàng bóp mũi vài
cặp bồ câu, cắt cổ vài con thỏ… để làm bữa nhậu, mời bạn bè tới lai rai cho
đúng lễ với hàng xóm và thỏa tình anh em. Khi đã hiểu được cái nguy hại của tội
sát sanh, con đâu có thể an tâm khi thấy vì mình mà có thêm một số con vật bị hại,
vì thế mà con không đi. Có lẽ anh Bốn hơi buồn, nhưng trước sau gì ảnh cũng
hiểu, cái trước mắt là con cố tránh cho được một chuyện sát hại sanh vật thì
quan trọng hơn. Ngoài đường phố Qui nhơn, có một lần con gặp một người cỡi xe
đạp chở một giỏ sắt phía sau, trong đó chất đầy một số chó, tất cả đã bị bẻ gãy
bốn cẳng nằm thiêm thiếp, chất chồng nhau. Ông ta đi dạo bán chó và bỏ mối cho
các tiệm thịt cầy. Nhìn thấy cảnh này quá tội nghiệp, quá thương tâm! Vì miếng
ăn mà con người trở nên quá ác độc, việc ác này có lẽ thiên địa quỷ thần phải
cau mày, 18 tầng địa ngục cũng đành phải rung động đó cô à!
Cho nên làm lành, lánh ác, là điều kiện căn
bản nhất của người tu hành. Làm lành để tăng trưởng phước đức, chuyển hóa
nghiệp báo. Có thể ví dụ thân nghiệp của chúng ta giống như một cái cân, trên
đó có hai cái đĩa, một đĩa là phước, một đĩa là nghiệp. Phước là phước báu,
công đức. Nghiệp là nghiệp chướng, tội lỗi. Hễ phước và nghiệp cân bằng thì
thân thể bình thường, phước nặng hơn nghiệp thì thân thể kiên khang, khỏe mạnh.
Nghiệp nặng hơn phước thì ta bị bệnh hoạn đau ốm. Làm việc thiện lành, ăn ở
nhân hậu, là làm cho cán cân nặng về phía phước, nhẹ về nghiệp, thân thể sẽ
kiện khang, tâm thần an lạc. Làm ác nhiều thì cán cân nặng về nghiệp, nhẹ về
phước thì thân thể bệnh hoạn, tâm thần âu lo, phiền muộn. Một người hiểu thấu
đạo lý này thì dại gì gây nên tội ác cho suốt đời bất an, đời đời kiếp kiếp
tiếp tục chịu khổ.
Một điều cần nói nữa là sự chi phối của định
luật tự nhiên. Tự nhiên nghĩa là sống hợp theo điều kiện thực tế để được điều
hòa. Người có nỗi khổ thì tự nhiên họ phải khổ để cho hết khổ, thân thể có bệnh
thì họ phải chịu bệnh để cho hết bệnh. Ví dụ như khi bị nhiễm trùng thì cơ thể
tự nhiên bị phát nóng, lạnh… để tiêu diệt vi trùng cho ta hết bệnh. Nói rộng
ra, khi ta gặp điều không vừa ý, bệnh hoạn, tai họa, phiền não… chính là những
phản ứng tự nhiên để cho ta tiêu nghiệp chướng đó. Cho nên, muốn tiêu nghiệp
chướng có hai cách: một là, bị bệnh hoạn, bị tai ương, bị chửi, bị mắng, bị oan
ức… cho nhiều để nghiệp chướng được tiêu trừ. Hai là, làm việc thiện cho nhiều,
tích công lũy đức cho nhiều, ăn ở hiền lành… để cho đĩa cân phước đức phải nặng
lên. Trong hai cách chuyển nghiệp, thì làm thiện lành, tích công lũy đức để hóa
giải khổ nạn có phần tốt hơn, tích cực hơn.
Trong phép làm thiện thì tu hành, niệm Phật,
là đại thiện trong các pháp làm thiện, tránh được nhiều khổ đau, sau cùng được
giải thoát rốt ráo trong một đời. Còn chờ cho bệnh hoạn, tai ương, khổ lụy… để
trả nghiệp thì nghiệp chướng cũng sẽ giảm, nhưng chắc chắn phải khổ đau hơn,
phiền toái hơn nhiều, có khi tiêu đời luôn, cho nên, đây chỉ là việc chẳng trốn
được mà thôi. Nhưng khổ nỗi, khi chúng ta biết quay đầu tu hành thì đã tạo ra
quá nhiều nghiệp chướng rồi, thì mấy thứ nợ nần trong quá khứ ta cũng phải trả
thôi. Vì vậy, khi tu hành mà còn thấy bệnh hoạn, xin cô hãy vui vẻ chấp nhận
cái nhân quả này, đừng sợ, vì biết chắc rằng nghiệp chướng của mình đang tiêu
mòn từng ngày. Điều đặc biệt, người chí thành niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ, thì
dù nghiệp chướng có tiêu hết hay không, cuối cùng vẫn được giải thoát. Đây
chính là nhờ lực gia trì của đức Phật A-di-đà mà được đới nghiệp vãng sanh
Tây-phương Cực-lạc, thành bậc Bất-Thối.
Cũng nên nhớ, làm thiện để trở thành người
thiện, khác với sự làm thiện để cầu phước. Làm thiện để cầu phước lộc là thiện
trong ác. Còn chân thành thương người, thương chúng sanh mà làm thiện thì đây
là chân thiện. Cho nên, phải chú ý phân biệt cho rõ sự việc này, đừng nên lầm
lẫn. Tất cả đều do cái tâm quyết định. Làm điều tốt để cầu hưởng danh vọng,
tiền tài, chức quyền, v.v… thì đây không phải là thiện mà vì cái tâm hẹp hòi vị
kỷ, sẽ bị cái nạn tam thế oán. Phật dạy niệm Phật mà còn có cái tâm vị kỷ, đố
kỵ, v.v… thì không thể vãng sanh. Ví dụ, tất cả những người đang có quyền, có
thế, giàu có trong đời này là nhờ đời trước họ tu rất nhiều, nhưng vì cái tâm
tham cầu danh văn lợi dưỡng cho nên tất cả công đức đã chuyển thành phước báu,
thành ông giám đốc, thủ trưởng, tỷ phú, v.v… Có được quyền lực, phước báu rồi
thì mặc sức tung hoành tạo nghiệp, cống cao, ngã mạn, không chịu tu… Cho nên
một ngàn người hưởng phước trong đời này ta tìm không ra được một vài người
tương lai sẽ thoát nạn. Phật nói đây là tam thế oán, mình đã hiểu quá rõ rồi,
thì nhất định đừng theo con đường đó. Thế giới Tây-phương Cực-lạc là nơi của
những “người thượng thiện” hội lại, nếu mình ăn ở không hiền lành, không thiện
lương thì không đủ tiêu chuẩn vãng sanh. Tính tình của cô trước nay nhân hậu,
thiện lương, đây là cái nhân rất hợp để được vãng sanh. Về phước báu hữu lậu
thì ngay trong đời này đã có hiện báo tốt. Đây là quả báo của sự thiện lành. Có
phước báu cần phải tu phước báu, hãy mở tâm lượng ra thương người, giúp đỡ tha
nhân. Thật thà làm những việc này, nhất định không thèm cầu mong một sự trả ơn,
không thèm buồn khi làm ơn mà bị trả oán, không thèm than thở khi bị hiểu lầm,
v.v… Hãy buông bỏ tất cả những thứ phiền lụy tầm thường này đi. Có câu thơ
rằng:
“Yếu vô phiền não,
yếu vô sầu,
Bổn phận tùy duyên
mạc cưỡng cầu,
Vô ích ngữ ngôn hựu
khai khẩu,
Vô can kỷ sự thiểu
đương đầu.”
Nghĩa là, cái điều chính yếu là không để bị
phiền não, không buồn sầu. Bổn phận giúp được ai thì giúp, tùy theo duyên,
không cần gượng ép. Nếu khuyên người ta không nghe thì tự mình lo tu hành,
không nên nói nữa làm chi cho rắc rối. Những chuyện xảy ra chung quanh nếu
không liên can tới mình thì nên tránh xa, đừng xen vào làm chi.
Quyết định như vậy, không lay chuyển. Ngày
ngày cố công niệm Phật, tha thiết cầu nguyện vãng sanh. Cứ thế mà đi, chắc chắn
cô được vãng sanh.
Thưa cô, tu pháp niệm Phật để vãng sanh rất
dễ, dễ khi mình biết buông xả. Nhưng coi chừng cũng rất khó, khó vì chấp chặt
không chịu buông xả. Chấp chặt là sao? Ví dụ: quyến luyến cái nhà, hễ rời đi
thì nhớ; quyến luyến con cái, hễ xa thì thương; tham lam tiền bạc, hễ bỏ ra một
đồng cũng tiếc; ham thích danh tiếng, thèm được vỗ tay cho nở mặt; tự tư ích
kỷ, đố kỵ ganh tỵ, v.v… nếu còn vướng những thứ này khó bề vãng sanh. Cụ thể
hơn, nếu cô cứ nhớ cái nhà ở An Thái thì đây là chấp. Cái nhà đó chỉ là cái lều
vô thường rồi đây nó phải tan rã, cái nhà thực của mình là hoa sen ở cõi
Tây-phương Cực-lạc kia kìa. Ví dụ như cha má con cứ quyến luyến cái quê Đông
Lâm, thì đây là chấp, cứ còn nghĩ cái xứ nghèo khó này là “Quê Cha Đất Tổ” thì
khó bề vãng sanh, nên nhớ đây chỉ là cái chỗ tạm trú chân chịu khổ, chịu nạn,
chứ cái “Quê Tổ” thực sự của mình là Tây-phương Cực-lạc.
Người thương nhớ con cái, không nỡ xa rời,
thì đây là tình chấp thế gian, khi chết khó được siêu sanh. Lúc lâm chung vì
luyến thương con cháu sanh lại kiếp người để đi làm vợ hoặc chồng của con cháu,
để có dịp gần gũi, âu yếm, chăm sóc nhau trong đời sau, (loạn luân!). Hoặc kém
may mắn hơn, ngu si đi đầu thai thành những con vật như chó, mèo, chim… những
loài bình thời con cháu mình ưa thích để được trở vào nhà cũ phục vụ cho con
cháu. Như vậy vì luyến nhớ con cháu thái quá mà đành mất phần vãng sanh, sơ ý
còn bị rơi vào tam ác đạo. Người liễu ngộ đạo pháp, phải hiểu cái chân tướng
giả hợp của vạn pháp. Đã là giả thì khi cần bỏ bắt buộc phải bỏ để giải thoát.
Một khi giải thoát, vãng sanh về Tây-phương rồi thì ta mới có đủ khả năng
thương yêu, bảo bọc, cứu độ lẫn nhau. Ở đây, muốn cứu cứu không nổi, muốn giữ
giữ không được, mà còn bị đọa lạc thì dại gì tự cam chịu khổ?
Có một đoạn giảng ký, Ngài Tịnh Không nói
rằng, đi về các nẻo khác thì cô đơn, buồn tẻ, cực nhọc, khổ đau, tìm một người
thân cũng khó. Còn vãng sanh về Tây-phương thì vui lắm, hàng ngày kẻ tới người
đi tấp nập như hội. Bồ-tát các nơi tới đó tham học, ta cùng chư vị Bồ-tát ở đó
đi các nơi tham quan cúng dường chư Phật. Một ngày mình phân thân thám du khắp
mười phương thế giới, (chứ không phải nhỏ xíu như quả địa cầu này). Cha mẹ,
thân nhân, bà con, bạn bè… trong vô lượng kiếp đến nay ngày ngày tụ họp vui vầy
bên nhau. Muốn về thăm lại quê cũ này thì một tích tắc tới liền…
Đây là sự thật. Vậy thì, xin cô hãy ngày đêm
tinh tấn niệm A-di-đà Phật, tha thiết cầu xin đi về Tây-phương. Quyết lòng tin
tưởng, giữ vững đường tu, thì đời này chắc chắn đắc thành đạo nghiệp. Còn gì
hạnh phúc hơn, phải không cô? (Tạm thời ngừng đây, thư còn tiếp).
Kính thư,
Con.
(Viết xong, Úc Châu, 27/01/03).