Tịnh độ
Khuyên Người Niệm Phật
Diệu Âm
25/09/2556 18:06 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:  Giảm Tăng
Khuyên Người Niệm Phật
Mục lục
Xem toàn bộ

Cháu Truyền,

Câu chuyện cô Lương Thị Chuẩn, con ông Lương Văn Liêm ở làng Vần, xã Yên Thắng, huyện Long Chánh, tỉnh Thanh Hóa chết năm 1988 đã đầu thai thành cô Hà Thị Khuyên con ông bà Hà Văn Lợi và Lò Thị Sơn ở làng Buốc, xã Lâm Phú, cùng trong huyện Long Chánh là đề tài còn khá hay! Thư trước cậu đã trả lời được vài câu hỏi nhưng chưa xong. Hôm nay cậu tiếp tục tới phần còn sót lại. Trả lời một thư phải gián đoạn mấy tháng trường là vì cậu khá bận, chắc cháu hiểu được việc này! Hy vọng cháu cũng có đọc những lời thư khác và giúp ích được ít nhiều cho cháu. Cháu có nhiều suy nghĩ khá sắc bén, đáng khen.

Hỏi: Hiện tượng này có liên quan gì đến Phật pháp không?

Trả lời:

Có chứ! Đây là hiện tượng sanh tử luân hồi mà trong Phật giáo nói rất rõ. Đối với Phật pháp, thì câu chuyện của cháu kể rất có giá trị, chứng minh được rằng chết rồi không phải hết, mà chết chỉ là đổi cái thân. Năm 1988 cô Chuẩn chết, nhưng đó chỉ là thân xác của cô chết, chứ thần thức của cô không chết, đã lang thang theo đám tang rồi đầu thai trở lại thành cô Hà Thị Khuyên. Những chuyện này nên phổ biến cho nhiều người biết, rất là hay!

Cô Khuyên khi sanh ra lại biết rõ chuyện quá khứ của mình. Đây vẫn còn là điều khá huyền bí, khá tế nhị. Sự tế nhị chính là ở chi tiết: ngày cô Chuẩn chết là ngày chị Lò Thị Sơn mang thai. Trong câu chuyện, chị Lò Thị Sơn, mẹ của cô Khuyên kể: “… vợ chồng tôi lấy nhau hơn bốn mươi năm mà không có con. Hôm đó đi qua làng Vần, chúng tôi gặp đám ma của một cháu gái. Tôi kêu lên: “Con bé tội nghiệp quá nhỉ!”. Ngay sau đó ít ngày tôi biết đã có bầu cháu Khuyên…”. Còn lời kể của cháu Khuyên: “Hôm đưa đám ma của cháu ở làng Vần, có một chị ngồi bên đường nói thương cháu quá. Cháu vội nhảy vào chiếc địu của chị ấy. Từ hôm đó cháu “đầu thai” vào nhà chị ấy…”.

Như vậy, sau khi chết, “thân trung ấm” của cô Chuẩn vất vưởng đi theo đám tang của mình, giữa đường gặp một người thốt lên lời thương tiếc đến mình. Sự thương tiếc này đã tạo nên sự cảm ứng, dẫn đến hành động cô Chuẩn nhảy vào bào thai vừa mới có của chị Sơn, và nằm trong thai đủ tháng đủ ngày mới sinh ra.

Theo thông thường, một thần thức nằm trong bào thai chín tháng mười ngày thì đều bị cái nạn “sanh khổ”. Sanh khổ là nhập thai, trụ thai, xuất thai mê muội. Khi sanh ra thì bị ký ức xóa sạch, không còn nhớ gì trước đó nữa. Chính vì thế mà trên đời này khó có ai biết được quá khứ của mình. Thế mà cô Khuyên lại biết rõ. Thật là một điều kỳ bí! Thư trước cậu nêu lên vấn đề thần thức đi đầu thai quá sớm, thời gian trải qua trong cảnh trung ấm quá ngắn. Có lẽ hiện tượng này giúp ích nhiều cho ký ức của cô Khuyên(?). Nhưng dù sao đó cũng không phải là điều chắc chắn. Cảnh giới huyền nhiệm, có nhiều điều chúng ta khó thể quyết đoán!

Hôm nay, cậu đưa ra thêm một vài khía cạnh khác, dù không hợp lắm với câu chuyện kể lại của cô Khuyên, nhưng cũng giúp cho cháu hiểu thêm về cảnh giới. Giả sử câu chuyện kể rằng, khi cô bé tên Chuẩn vừa mới chết, một vài ngày sau là cô Khuyên sinh ra, thì có lẽ sự giải thích đơn giản hơn. Trường hợp này có thể ứng hợp với sự “đoạt thai”, như trong kinh Phật có nói đến.

Đoạt thai là sao? Tổng quát, là một thần thức trong cảnh trung ấm đi chiếm đoạt cái thai của một thần thức khác. Nghĩa là, coi như cái thần thức trong thai chưa kịp sinh ra mà đã bị chết. (Hẳn nhiên, vấn đề này có thể còn liên quan đến nhiều yếu tố khác nữa. Huyền bí quá phải không?!). Nếu cái thai đó đã gần đến ngày sanh thì thần thức này chỉ ở trong thai vài ngày, thậm chí thời gian trụ thai ngắn hơn, rồi sanh ra. Chính vì vậy mà họ thoát được cái nạn trụ thai, khỏi bị tù đày 10 tháng trong thai ngục.

Giả sử, sự việc này thực sự đã xảy ra, thì trong năm 1988, em Chuẩn đang sống, đang vui đùa. Em hái mận ăn, vô ý nuốt phải hạt mận bị nghẽn cổ chết thình lình. Sự cố quá bất ngờ, em chết lúc mới bảy tuổi, còn non dại, ngây ngô, trong sáng, yêu đời, sức sống còn quá mạnh. Hơn nữa, có thể số phần của em chưa mãn, chỉ vì gặp tai nạn bất ngờ mà bị “bất đắc kỳ tử”, cho nên thần thức cứ vất vưởng theo đám tang, gặp dịp một người mang thai tới gần, chỉ cần một sự gợi ý là có cảm ứng, đã thúc đẩy thần thức của em chiếm đoạt cái thai của một linh hồn đã bị mê mệt một cách dễ dàng.

Như vậy, hành động “nhảy vào chiếc địu” ấm áp để nằm, thực ra là một sự tấn công, đuỗi một linh hồn khác ra ngoài, chiếm đoạt lấy bào thai và sanh ra thành cô Khuyên. Sau này, khi nhà báo Nghĩa Tân hỏi tới thì cô Khuyên không còn nhớ được chi tiết để kể lại. Lý luận này trả lời có phần thích đáng hơn là thân trung ấm như trong thư trước.

Nếu đúng theo trường hợp này, thì lời kể lại của chị Lò Thị Sơn đã không được chính xác. Nghĩa là, chị đã có thai gần sanh rồi mới đến thăm làng Vần, gặp đám tang của một cháu nhỏ, chị thấy tội nghiệp cảm mối thương tâm mà than lên rằng: “Con bé tội nghiệp quá!”, rồi trở về nhà một vài ngày sau thì sanh liền. Nhưng vì thời gian đã mười ba năm trôi qua, công việc làm ăn bận bịu, chị đã quên mất chi tiết này chăng!?

Đoạt thai là một hiện tượng phổ biến, thường có xảy ra mà mình không hay đó thôi. Nhất là những trường hợp bị chết bất ngờ vì tai nạn. Ví dụ, như mới đây, cậu có kể với cậu Đường câu chuyện một anh giám đốc bị tai nạn chết bất ngờ rồi đầu thai thành chó. Đây là câu chuyện có thực, và được người ta đem đóng lại thành phim, với tựa đề là “FLUKE!” (Tạm dịch: “Tấn tuồng may rủi!”). Có phúc báu, có quyền thế là “May”. Nhưng chết lại bị thành chó, đó là “Rủi”! May đó, rủi cũng đó. Phải chăng cuộc đời giống như một tấn tuồng trên sân khấu! Phim này được Hội Tịnh Tông cho phát hành trong nội bộ để nhắc nhở đồng tu.

Con chó sanh ra rất thông minh, biết được trước đây mình làm giám đốc một công ty, khi đến văn phòng cũ nó nhảy ngồi lên cái ghế của giám đốc với tướng bộ rất oai phong, nó tìm được xâu chìa khóa đã bỏ quên, biết được những ngăn tủ chứa giấy tờ quan trọng, v.v…

Tại sao đã bị thành chó rồi mà còn biết rõ chuyện quá khứ vậy? Vì đã đoạt thai của một linh hồn trong thai chó. Khi sanh ra, thân thể là chó, nhưng linh hồn lại là người. Con người nằm trong thân chó. Nói rõ hơn, chết rồi thành chó. Nếu thai đó đã đến ngày sanh, vừa mới đoạt thai là sanh ra liền thì người đó chỉ trải qua một biến cố giống như một cơn ác mộng rồi tỉnh dậy, tiếp tục sống trở lại! Nhưng buồn thay! Một cơn ác mộng đã thành sự thật, đưa hẳn một con người vào hàng súc sanh. Trước đây một vài ngày thì oai phong lịch lãm của một vị giám đốc, sau một vài ngày thì phải lăng xăng tranh núm vú với đàn chó con! Đây chính là một sự luân hồi đọa lạc, chết rồi đầu thai trở lại là sự thật mà nói ra thì ít ai chịu tin!

Tại sao lại tái sanh vào hàng súc sanh? Cái nguyên nhân chính là do trong đời làm nhiều điều xấu, tâm hồn u ám, ngu muội. Nghiệp xấu ác do mình tạo ra trong nhiều đời nhiều kiếp luôn luôn bám sát theo mình để chờ cơ hội dẫn dắt mình vào ba đường đọa lạc: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Cậu thường nhắc đến vấn đề ý niệm khởi ra khi lâm chung có ảnh hưởng rất lớn, nó có thể quyết định đường tái sanh: sân giận bị đọa địa ngục, ngu si bị đọa súc sanh, tham lam bị đọa ngã quỷ. Một người chết đầu thai vào bụng chó, nguyên gốc của nó chính là sự ngu si!

Tại sao lại ngu si? Vì lúc sanh thời không chịu nghe pháp Phật, không chịu phản tỉnh lỗi lầm, bướng bỉnh sống theo những ý nghĩ nông cạn, không sáng suốt phân biệt thiện ác, phải trái, trắng đen. Đây là cái nhân của sự ngu si! Ngoài ra, những người thích ăn nhậu, say sưa, hút xách, suốt ngày ưa ngủ li bì, v.v… cũng dễ tạo ra cảnh giới mê muội, hôn trầm, có thể tạo nên hậu quả không tốt sau khi chết!

Cũng nên nhớ, danh từ “ngu si” này không phải là người thiếu lịch lãm, thiếu học, kém thông minh của thế gian, mà chính là thiếu cái huệ căn trong Phật pháp. Trí huệ thuộc về xuất thế gian, thông minh là trí thức thế gian, hai chuyện khác nhau. Ví dụ, anh giám đốc bên trên lúc còn sống rất có nghị lực, thông minh, có đủ năng lực điều hành thành công một công ty lớn, nhưng khi chết lại không sáng suốt để nhận rõ đường thiện đường ác, nên không biết chỗ nào tốt để đi đầu thai. Vì ham muốn sự sống trở lại quá mãnh liệt nên bất chấp hậu quả, đã quyết tranh giành cái thai chó, để rồi vạn kiếp sống trong cảnh giới súc sanh!

Chuyện đầu thai chuyển thế còn dài, còn rất nhiều trường hợp như thế thân, mượn thân, thay hồn đổi xác, v.v… Tất cả những chuyện này quá huyền bí! Chúng ta không nên khai thác sâu hơn. Tuy nhiên cũng nên biết thêm một chút về sự giáng sanh của các vị Thánh nhân.

Đầu thai là chúng sanh theo nghiệp thọ sanh, còn giáng sanh là trường hợp các vị Thánh Nhân, Phật, Bồ-tát chủ tâm hạ sanh xuống trần. Trường hợp này, khi sanh ra thường có những điềm lành bất khả tư nghị như: ứng mộng, hương hoa, hào quang, hiện tướng lành, v.v… những hiện tượng hiển linh đặc biệt mà người thường như chúng ta không dễ gì suy luận được. Hầu hết các Ngài cũng thị hiện sanh ra, lớn lên bình thường như mọi người, nhưng khi đã chọn nơi để hạ sanh, thì theo như lời ngài Ấn Quang tổ sư dạy, thường phải có một thần thức khác tới trụ thai chờ ngày các Ngài tới. Chính vì thế mà ngày giáng sanh người mẹ thường thấy được sự ứng mộng đặc biệt. Ví dụ như Ma-Da phu nhân đã nằm mộng thấy có một vị cỡi voi trắng sáu ngà giáng hạ mà sanh ra thái tử Tất-Đạt-Đa (tức là đức Phật Thích-ca Mâu-ni). Điều này có nghĩa là, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã thị hiện xuống trần với thân phận là thái tử Tất-Đạt-Đa, đây chỉ là một ứng hóa thân của Ngài để khai mở Phật đạo ở trái đất này nhằm cứu độ chúng sanh, chứ thái tử Tất-Đạt-Đa không phải là người bình thường rồi tu hành mới thành Phật. Trong kinh Phạm Võng, Phật nói trước khi ứng hóa thành thái tử Tất-Đạt-Đa, Ngài đã xuống trần tất cả 8 ngàn lần rồi mà chúng ta đâu có hay!

“Nhứt Phật xuất thế, thiên Phật hộ trì”. Đức Thích-ca Mâu-ni đã thị hiện thành Phật tại quả đất này để lập đạo thì hàng ngàn vị Phật và Bồ-tát khác cũng giáng phàm để hộ trì cho đức Bổn Sư Thích-ca xây dựng đạo pháp. Các Ngài đóng đủ các vai trò như làm người thân, đệ tử, người xuất gia, cư sĩ tại gia, v.v… để cùng hoằng dương Phật pháp, cứu độ chúng sanh. Các Ngài thị hiện một cách bí mật và âm thầm hành đạo, chứ tuyệt đối không bao giờ thố lộ tông tích. Đây là một nguyên tắc trong Phật môn, tránh cho chúng sanh lầm lẫn, nhất là giữa thời mạt pháp loạn lạc, chánh tà lẫn lộn. Tại sao vậy? Vì ngoài đức Phật Thích-ca Mâu-ni xuất hiện chính thức để khai đạo ra, nếu các vị Phật khác xưng là Phật, thì hàng ngoại đạo cũng có thể xưng là Phật, lúc đó làm sao chúng sanh phân biệt được ai thật ai giả! Cho nên, nếu cháu có ý hướng tu hành, làm lành lánh ác, hướng thượng tâm linh, thì cần phải chú ý đến điều này. Nhất thiết không được hiếu kỳ mà mang hại đó!

Hỏi: Như vậy, ngoài thế giới mình đang sống, chẳng lẽ còn một thế giới khác nữa? Thế giới khác đó ra sao?

Trả lời:

Không phải chỉ có một thế giới khác, mà có rất nhiều thế giới khác đang sống trên vũ trụ pháp giới này, không thể nào đếm hết. Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật nói có “chủng chủng sát độ”. Nghĩa là thế giới có trùng trùng điệp điệp, vô lượng vô biên. Không phải là hàng ngàn, hàng triệu, hàng tỉ, mà nhiều đến nỗi không còn có thể đếm thành số được nữa, nên mới gọi là “Vô lượng thế giới hải”.

Trong kinh Phật nói, cõi Ta-bà là giáo khu hóa độ của đức Thích-ca Mâu-ni Phật, rộng đến tam thiên đại thiên thế giới, nghĩa là 1.000 x 1.000 x 1.000 = 1 tỉ đại thiên thế giới. (Cũng nên nhớ, đức Thích-ca Mâu-ni Phật không phải chỉ là thái tử Tất-Đạt-Đa, mà thái tử Tất-Đạt-Đa chỉ là một ứng thân của Phật tại trái đất này mà thôi. Nói rõ hơn, có hàng tỉ đức Thích-ca Mâu-ni thị hiện xuống ở hàng tỉ hành tinh khác, những nơi có sự sống trong cõi Ta-bà để giáo hóa chúng sanh).

Một đại-thiên-thế-giới có một ngàn trung-thiên-thế-giới, một trung-thiên-thế-giới có một ngàn cái tiểu-thiên-thế-giới, một tiểu-thiên-thế-giới có một ngàn thế-giới. Một cái thế-giới không phải là một quả địa cầu, mà hiện nay có nhiều người nghiên cứu chứng minh ra rằng, một thế giới trong kinh Phật nói có thể rộng lớn như một dãy ngân hà.

Hàng đêm chúng ta nhìn lên bầu trời thấy vô vàn vì sao lấp lánh, một vì sao đó không phải chỉ là một hành tinh nhỏ như quả địa cầu, mà có thể là một thái dương hệ. Có hàng tỉ thái dương hệ đang hoạt động trong dãy ngân hà này. Trong hư không pháp giới có hàng tỉ tỉ cái dãy ngân hà. Tất cả ở đó đều có sự sống, dưới hình thức này hay hình thức khác. Hãy tính thử coi, như vậy trong vũ trụ này có bao nhiêu thế giới? Hơn nữa, ngoài những thế giới chúng ta có thể thấy, còn có vô lượng cảnh giới mà mắt thường chúng ta không thể thấy được.

Có nhiều người nghĩ rằng, kinh Phật nói có vô lượng thế giới, tại sao các phi hành gia bay lên mặt trăng, tới sao hỏa, bay vào không gian họ không thấy gì cả? Thực ra, đâu cần gì phải bay vào không gian mới không thấy, ngay trước mắt chúng ta vẫn có thiên địa, quỷ thần, yêu ma, v.v… sống chung lộn với loài người mà ta cũng không thấy! Khi một người mất, thân xác thì liệm trong hòm, còn linh hồn của họ vẫn đứng buồn xo trước mặt người thân. Hỏi rằng, đã có ai thấy được chưa?

Vào khoảng tháng 11/1999, cậu có một người bạn thân bị nạn cảnh ma, khá dễ sợ! Anh ta bị con ma nữ chận đường rồi theo luôn vào nhà và sau đó muốn nhập vào người anh. Có lúc cha của anh vào phòng ngồi cách con ma có nửa thước mà không thấy, còn anh ta thì thấy rõ ràng. Thường khi thì con ma ngồi trong một góc phòng, tóc phủ trùm cả mặt. Có một đêm con ma đứng lên, từ từ tiến tới càng lúc càng gần và như muốn nhập vào người anh. Trong lúc quá hãi sợ, anh bạn vớ được chiếc điện thoại cầm tay và gọi cầu cứu đến cậu…

Câu chuyện này khá dài, cậu chỉ tóm tắt là: trong đêm đó cậu hướng dẫn anh bạn và một người bạn khác lái xe tới nhà cậu. Cậu đã giúp anh ta bằng cách khuyên anh ta phải liên tục niệm Phật, khuyên con ma niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ, mình hứa niệm Phật tiếp sức hồi hướng công đức cho cô chứ tuyệt đối không cho mượn thân, nghĩa là, phải cứng rắn từ chối, niệm lớn câu Phật hiệu khi cô muốn nhập. Chỉ vậy thôi, trong vòng hai ngày anh ta được giải nạn.
Chuyện này cũng chưa hay, còn có chuyện khác hay hơn. Hiện ở tại đây, có một ông bác tên là Nguyễn Văn Th…, pháp danh là T.M, tuổi trên 70, hàng ngày đều thấy ma, rất nhiều, có khi có cả hàng chục, hàng trăm con. (Thực ra, ta gọi là ma cũng hơi sai, vì họ cũng là chúng sanh như chúng ta, đang sống trong những cảnh giới khác mà thôi). Những chúng sanh này có duyên với bác, thường xuyên tiếp xúc với bác từ Sydney, một thành phố cách Brisbane cả ngàn cây số. Khi về đây tu tập, bác vui tánh mời, thử coi họ có theo được không. Không ngờ, sau khi xuống xe lửa vừa về tới liêu phòng ở Brisbane thì bác đã thấy chúng tụ tập đầy nhà chờ bác. Có nhiều đêm chúng còn chen mình nằm cùng giường với bác. Sự việc quá thường xuyên nên bác không còn sợ nữa. Bác nói với chúng, muốn tu hành thì ở đây tu, đừng phá phách là được. Hàng ngày bác niệm Phật rồi hồi hướng cho chúng. Trong năm vừa qua, bác thỉnh chư vị Tăng Ni làm lễ quy y Tam Bảo cho chúng hai lần. Có một dạo cậu ngủ chung nhà, có khi chung phòng với bác. Bác thì thấy ma đầy nhà, còn cậu và những người khác không ai thấy gì cả. Đây là câu chuyện hoàn toàn có thực.

Vậy thì, cần gì phải đợi bay vào không gian mới không thấy! Phật nói, “Pháp giới mông huân”, cảnh giới trong vũ trụ này vô lượng vô biên, không cùng không tận, huyền bí phi thường! Biết bao giờ con mắt bình thường của con người mới có thể thấy cho hết!

Bên trên là nói thế giới rộng lớn bao la vô tận, từ quả địa cầu này nhìn ra ngoài vũ trụ hư không. Bây giờ thử nhìn sâu vào trong đến thế giới tế vi. Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật nói, trong thế giới có vi trần, trong vi trần có thế giới, trong thế giới lại có vi trần… chủng chủng vi trần sát. Vi trần là một vật thể rất nhỏ, có thể nhỏ đến mắt thường không thể thấy được. Ấy thế mà trong vi trần lại có thế giới sống trong đó. Trong thế giới đó lại có vi trần khác, rồi trong vi trần đó lại có thế giới nữa… trùng trùng chủng chủng, vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn được!

Nghe đến điều này, chắc chắn nhiều người cảm thấy mơ hồ, xa vời, quá sức trừu tượng, không còn biết đâu để lý giải nữa! Nhưng cháu à, nếu ngộ được lý đạo này thì thích thú lắm. Ngôn từ, chữ nghĩa thế gian không đủ sức để diễn tả! Cậu sẽ cố gắng đưa ra một số ví dụ cụ thể, dựa theo đó mà cháu liên tưởng ra thế giới hải, chứ còn lý đạo thì quá sâu rộng, quá siêu hình, không thể nào diễn tả được đâu!

Phật nói trong thế giới có thế giới. Ví dụ như, quả địa cầu chúng ta là một hình thức thế giới, trong đó có hàng trăm quốc gia, mỗi quốc gia là một thế giới. Trong một quốc gia có hàng triệu người, mỗi người sống theo thế giới riêng của họ. Giả như gom lại, tất cả sinh hoạt của loài người trên quả địa cầu này là một thế giới, thì vẫn còn có vô vàn những thế giới khác đang sinh hoạt chung với chúng ta. Con cá dưới nước, con chim trong rừng, con muỗi trong lùm cây, đều có thế giới riêng của chúng. Con sâu nằm trong trái táo, thì trái táo là thế giới của nó. Trong bụng con sâu vẫn còn có thế giới của loài vi trùng, vi khuẩn. Trong thân thể của loài vi khuẩn vẫn còn có những phân tử, điện tử đang hoạt động với tốc độ quay cuồng rất nhanh. Đó đều là sự sống có hoạt động hẳn hoi. Nếu thấy được điều này thì trong thân thể của chúng ta là cả một đại vũ trụ đang sinh hoạt, trong từng lỗ chân lông là cả một thế giới đang sống. Phải chăng thế giới sống trùng trùng vô tận!

Nên nhớ một điều, những cái chúng ta không thấy không phải là không có. Con kiến chúng thấy không gian chung quanh chỉ là một màn trống rỗng, nhưng thực sự có con người thân thể lớn hơn chúng cả tỉ lần đang nhìn thấy chúng rõ ràng. Tại sao chúng không thấy? Vì mắt của chúng quá kém! Quỉ thần, thiên địa, yêu ma, v.v… đang theo dõi từng cử động của con người, trong khi con người không thấy được họ! Tại sao không thấy? Vì mắt của con người quá kém!…

Rất nhiều trường hợp một sinh vật này thấy được sinh vật khác, nhưng sinh vật khác không thấy lại được. Quỷ thần thấy ta, ta không thấy họ. Đêm càng đen tối con cú thấy càng rõ, còn con người thì không. Tia hồng ngoại có thể nhìn suốt qua màn đêm, tia sáng X nhìn xuyên qua một số vật chất, v.v… tất cả những điều này mắt con người không có khả năng. Không gian đa chiều, mắt chúng ta chỉ bắt được có ba chiều, nếu có một vật xuất hiện trong chiều thứ tư, thứ năm, v.v… thì ta chịu thua.

Cảnh giới như là hiện tượng của làn sóng ba động. Những hình ảnh sống động bay lượn khắp bầu trời, chiếc TV bắt được mà ta không được. Nhiều âm thanh xuất hiện thường trực trong không gian, ta không nghe, nhưng chiếc máy điện thoại, chiếc máy thâu thanh có thể bắt được, v.v… Rất nhiều ví dụ để diễn tả cảnh giới trùng trùng trong vũ trụ, mỗi cảnh giới đều có sự hoạt động riêng trong từng giây phút mà chúng ta không hề hay biết.

Trong kinh A-di-đà, Phật nói cách đây hơn mười vạn ức cõi Phật độ có một thế giới gọi là Thế Giới Tây-phương Cực-lạc của đức Phật A-di-đà. Với khoảng cách xa như vậy, đối với khoa học ngày nay vĩnh viễn không bao giờ có thể khám phá ra được. Vậy mà một người quyết lòng tin tưởng, chí thành niệm Phật không gián đoạn, không hồ nghi, không niệm tạp nhạp, tha thiết cầu sanh về đó, thì trong một đời này khi hết báo thân sẽ sanh về tới đó. Đây là sự thật, rất nhiều người đã được vãng sanh. Sự việc này chứng minh rõ ràng rằng lời Phật nói không sai. Đây là một thế giới vô cùng trang nghiêm, vĩ đại, đẹp đẽ, vi diệu vô cùng, khó có thể diễn tả thành lời. Phật nói, ở đó con người không phải là thai sanh mà từ hoa sen hóa sanh ra. Một hoa sen nhỏ nhất cũng lớn bằng vài tỉnh của VN, có hoa lớn đến nỗi cả nước VN chỉ bằng cánh hoa mà thôi. Trong hoa sen đó là cả một thế giới cho chúng ta sống, có cung điện, lầu các, phương tiện du hành, tiện nghi cho cuộc sống đều tùy tâm ứng hiện, như muốn tới nơi nào tự nhiên nơi đó hiện ra, muốn về thăm làng cũ thì tức khắc làng xưa của mình có ngay, bà con cô bác đang hoạt động ngay trước mắt. Nói chung đây là cảnh giới sống rất an vui, tốt đẹp, không có khổ mà đức Phật A-di-đà hiến dâng cho chúng sanh khi vãng sanh hưởng dụng để an tâm tu hành chờ ngày thành Phật.

Cảnh giới Tây-phương Cực-lạc thật không thể nghĩ bàn! Nói ra thì giống như một sự tưởng tượng, nhưng sự thực có thực, với trí óc bình thường con người không bao giờ hiểu tới! Ở đó có những hàng cây cao đến 400 vạn dặm, có nghĩa là nếu mọc từ quả đất thì nó cao vượt khỏi mặt trăng. Chu vi của thân cây lớn đến 5 ngàn do tuần, tính ra cái gốc cây lớn hơn quả địa cầu ít ra cũng 5 lần. Một chiếc lá rộng đến 200 ngàn dặm, dùng chiếc lá đó có thể gói gọn quả địa cầu này chẳng khác gì như gói một viên kẹo. Như vậy, quả đất này quá nhỏ, nhỏ đến thảm thương, nhỏ xíu như một viên kẹo, thế mà trên viên kẹo đó lại có hàng tỉ con người sinh hoạt, có vô lượng sinh vật các loài đang sống! Quả địa cầu này so sánh với Tây-phương Cực-lạc thì có khác gì một thứ vi trần!

Cảnh giới thật sự vô lượng vô biên, trùng trùng điệp điệp, chúng sanh vì không hiểu nên cứ bám chặt lấy cảnh giới ô uế của mình mà đành vạn kiếp khổ đau, không có ngày giải thoát. Con dòi bám lấy bãi phân, con kiến bám lấy cái hang, con sâu bám lấy trái táo, con bò bám lấy cái chuồng, con người bám lấy cái nhà, v.v… tất cả chỉ là những vật bất tịnh, nhỏ bé, vô thường, khổ nạn! Đâu ngờ rằng còn có những cảnh giới trang nghiêm, thanh tịnh, vi diệu, vĩ đại, tốt đẹp phi thường, đang dâng tặng mà chúng sanh không chịu hưởng. Thật là đáng tiếc!

*) Cảnh giới như thế nào?

Cảnh giới trong vũ trụ hư không do chính tâm của chúng ta biến hiện ra. Lý đạo này cao lắm! Để cho dễ hiểu, cậu vẽ cái đồ hình bên trên làm biểu trưng để giúp cháu suy nghiệm. (Nên nhớ đây chỉ là hình vẽ biểu trưng cho dễ hiểu mà thôi, chứ đừng nên chấp vào cái hình. Ví dụ như Ngài Tịnh Không khi nói về cảnh giới Ngài thường dùng cái màn ảnh TV làm ví dụ, băng tần ví như cảnh giới, màn ảnh là nơi diễn ra tất cả cảnh giới. Đây chỉ là ví dụ, để biểu trưng chứ không phải cảnh giới này là cái máy TV).

Trong đồ hình, mỗi vòng tròn tượng trưng cho một không gian, một cảnh giới. Vạn pháp duy tâm, thì khởi đầu của vạn vật vũ trụ là ở tại tâm, chỉ là một điểm (X). Điểm (X) ở tại đây, nghĩa là tất cả mọi cảnh giới trên vũ trụ đều có thể ở tại đây chứ không ở đâu xa cả, nhưng môi trường hoạt động thì hoàn toàn khác nhau. Có cảnh giới chỉ lẩn quẩn trong vòng số 1, có cảnh giới rộng lớn vô cùng, vô tận, vô biên như không gian số 5. Một chúng sanh sống trong cảnh giới số 1, hỏi tới điểm (X) ở đâu? Ở đây! Ở ngay trong cái hang nhỏ xíu tối tăm này. Đối với một người trong không gian số 4, hỏi tới điểm (X) ở đâu? Cũng ở đây! Nhưng từ chỗ này họ có thể nhìn thấu suốt cả dãy ngân hà, đi qua cả nhiều thái dương hệ, thăm viếng vô lượng hành tinh. Rõ ràng cũng tại một nơi nhưng không gian hoàn toàn khác nhau, cảnh giới hoàn toàn khác nhau.

Cảnh giới tương ứng với tâm lượng. Tâm hồn hẹp thì cảnh giới hẹp, tâm hồn rộng thì cảnh giới rộng. Con kiến chấp lấy cái hang thì hoạt động quanh quẩn cái hang, cảnh giới của chúng là cái vòng số 1. Con người chấp lấy cái trái đất này, tưởng là vĩ đại nhưng thực ra chỉ lần quần trong cái vòng tròn thứ 2. Quỷ thần vòng thứ 3, chư thiên vòng thứ 4, v.v… Khi trở về được với tự tánh, tâm lượng mở rộng vô biên thì cảnh giới cũng mở rộng không còn biên giới. Đây chính là cảnh giới của chư Phật, Bồ-tát.

Hiểu được chỗ này ta mới thể hội được cái lý đạo thậm thâm vi diệu trong kinh Phật. Phật nói, tất cả chư Phật sát độ, mười phương pháp giới không rời khỏi chỗ này, gọi là “Bất ly đương xứ”. Đương xứ là tại đây. Nghe như vậy, xin chớ đừng tự mãn mà cho rằng ta đang ở trong cảnh giới Phật. Không đâu! Không gian bất đồng vi thứ, chiều kích khác nhau, cảnh giới khác nhau, tâm lượng khác nhau đã làm cho chúng ta tự ngăn cách với cảnh giới Phật.

Nói sâu hơn nữa, cảnh giới Phật ở tại đây, chư Thiên, Thần Thánh, Ma Quỷ cũng ở đây, tam đồ ác đạo cũng ở đây luôn, nhưng cảnh giới của ai tự người đó sống. Sự ngăn cách này là do cái niệm trong tâm. Phật-Ma, Ma-Phật đều ở tại tâm vậy!

Tâm vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đã làm phân cách không gian. Không gian cách ngăn ra từng ô nên gọi là xứ xứ. Sở dĩ có xứ xứ đều là do tâm niệm mà có, cho nên xứ xứ bất ly đương niệm, một niệm khác tạo ra một cảnh giới khác nhau. Cái vọng niệm của chúng sanh quá nhiều, nên cảnh giới hình thành cũng nhiều đến vô lượng vô biên! Khi nào ta trở về được với tự tánh thanh tịnh thì không gian không còn biên giới nữa. Xứ xứ đã mất, niệm niệm cũng mất, đây là cảnh nhất chân pháp giới, “Biến nhứt thiết xứ”.

Cảnh giới trong kinh Phật nói thật sự là rộng bao la vô cùng vô tận, siêu vi huyền diệu. Con người ngày nay đang sống trong thế giới hiện tượng nên khó chấp nhận điều này. Tuy nhiên, Phật pháp nói cao diệu thì thật cao diệu vô thượng, nhưng nói về thực tế thì cũng thực tế như sự ăn mặc, tiếp vật, đối người. Cháu hãy nhìn lại cái đồ hình bên trên một lần nữa mà suy nghiệm.
Ví dụ, một người ích kỷ, chỉ sống cho riêng cá nhân, không cần biết đến một ai khác, thì chắc chắn cũng không có ai cần đến họ. Sướng khổ, vui buồn, sống chết… mặc thân. Cảnh giới của họ thực sự đã thu hẹp như vòng tròn số 1. Nếu họ biết thương đến gia đình, nghĩ đến người khác, tín nghĩa với bạn bè, thì thế giới của họ nới rộng ra đến vòng số 2. Nếu họ trung với nước, hiếu với dân, biết thương người, biết lo cho dân tộc, biết phục vụ chúng sanh, thì tầm hoạt động của họ đã rộng đến khắp cả nước, uy đức của họ đã ảnh hưởng đến cả thế giới, thì cảnh giới của họ lớn đến số 3, số 4, v.v… Rõ ràng cảnh giới mở rộng theo tâm lượng của con người. Cách đây 3 ngàn năm, thái tử Tất-Đạt-Đa có tâm hồn thật vĩ đại, thật cao thượng. Ngài có tâm đại từ, đại bi, đại trí, đại dũng, quyết tâm cứu độ tất cả chúng sanh khổ nạn trong hoàn vũ, thành ra cảnh giới của Ngài đã rộng lớn đến tam thiên đại thiên thế giới, đến hàng tỉ dãy ngân hà!

Chơn tâm bản tánh của chúng ta nếu nói lớn thì có thể châu biến pháp giới, gọi là “Chí đại vô ngoại”, không có gì ở ngoài tâm. Ngược lại, nếu nói nhỏ thì nhỏ đến “Chí tiểu vô nội”, không có thể chứa được một vật nhỏ nào bên trong. Chơn tâm của chúng ta hoàn toàn trong sạch, thanh tịnh, vắng lặng, không nhiễm một hạt bụi trần, không chứa một vật gì bên trong nên mới “vô nội”. Đây chính là cảnh giới của “CHƠN KHÔNG”. Dù là chơn không, nhưng một khi nó phát ra diệu dụng thì sanh ra sơn hà, đại địa, vũ trụ, nhân sinh, tất cả vạn vật, không có cái gì ở ngoài chơn tâm nên mới “vô ngoại”. Đây chính là cảnh giới “DIỆU HỮU”. Chơn-không diệu-hữu diễn tả cái Thể và cái Dụng của chơn tâm, bao hàm từ chỗ nhỏ nhất cho đến chỗ lớn nhất vậy.
Cho nên, đối với cái tâm, tầm cỡ nào nó cũng có thể dung chứa được cả. Tốt-xấu, trắng-đen, thị-phi, thiện-ác, có-không, vật chất hay tinh thần, v.v… tất cả đều hàm chứa trong cái tâm. Mình muốn làm Thánh Nhân thì mình sẽ trở thành Thánh Nhân, mình muốn làm phàm phu thì mình trở thành phàm phu, muốn cảnh giới nào thì cái tâm nó hiện ra cảnh giới đó. Chính vì thế mà cái tâm này nó có thể đưa ta đến ngôi vị Phật, Bồ-tát, đại giác, đại trí huệ. Ngược lại, cũng chính cái tâm này lại xui khiến ta chui vào bãi nhơ làm kiếp con dòi, nấp vào hang sống dưới đời con kiến, tìm tới những cảnh giới khốn nạn của loài ngạ quỷ chịu đói khát vạn đời, hoặc chui xuống địa ngục để chịu khổ cực vĩnh kiếp, khó có ngày thoát thân!

Nhất thiết duy tâm tạo, đây là đạo lý nhất định không sai. Hiểu được điều này thì làm người chúng ta cũng nên biết lo tu tâm dưỡng tánh, biết thương người giúp đời, biết lo hướng thượng tâm linh để cho cảnh giới của mình càng ngày càng rộng, càng cao thượng. Người có “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”, nghĩa là tâm hồn cao thượng bao la, thì cảnh giới của họ rộng bao trùm thái hư, công đức sẽ lớn đến khắp cõi pháp giới, tương lai sẽ được về những cảnh giới tốt đẹp trang nghiêm. Ngược lại, người có tâm hồn hẹp hòi, xấu ác, thì tự họ nhốt tù chính họ trong những cảnh giới nhỏ hẹp, khó khăn, khổ nạn, tương lai sẽ đi về những cảnh giới tối tăm. Phật nói, nhân nào quả đó. Đây là định luật của nhân quả, không thể thay đổi được!

Trong vũ trụ này có thế giới trùng trùng, vô lượng vô biên cảnh giới là sự thực. Một người chết đi, đầu thai sống lại trong những cảnh giới khác cũng là sự thực. Đây là sanh tử luân hồi. Sanh là ta sanh ra để sống, tử là khi thân ta chết, luân hồi là quay trở lại để sống. Cô Chuẩn chết chuyển thành cô Khuyên thì coi như “huề vốn”. Anh giám đốc chết chuyển thành con chó thì bị “lỗ vốn”, hay nói chính xác hơn là người bị đọa lạc vào hàng súc sanh. Còn có những cảnh giới bị thua lỗ nặng hơn nữa như ngạ quỷ, địa ngục, ở đó sự khổ đau làm sao có thể diễn tả thành lời!
Tâm lượng là cái cân định giá nhân phẩm của con người. Tâm lượng lớn nhân phẩm cao, tâm lượng nhỏ nhân phẩm thấp. Cho nên, sống trên đời ta không thể sơ ý nhìn bề ngoài mà đánh giá nhân phẩm của một người được. Người có tâm hồn thiện lành thì tự nhiên được mọi người kính trọng, hưởng được nhiều sự an lành. Người xấu ác thì bị mọi người khinh dễ, cuộc sống gặp nhiều trắc trở, tai ương. Gieo nhân nào gặp quả đó, đây là định luật nhân quả. Ví dụ, nếu cháu có tâm hồn rộng lớn, thì dù cháu có đóng cửa ở trong nhà thì tầm hoạt động của cháu vẫn ảnh hưởng bao trùm thế giới. Đây gọi là “niệm niệm bất ly đương xứ”, nghĩa là thân thì ở ngay tại đây nhưng tâm niệm thì đã vượt không gian, vượt thời gian, đi khắp mọi nơi. Ngược lại, nếu một người có tâm hồn hẹp hòi, ích kỷ dù họ có đi khắp nơi, (gọi là xứ xứ), để giới thiệu, để phô diễn những lời hay tiếng đẹp thì cũng không thể thâu đạt được một thành quả tốt đẹp. Vì sao? Vì “xứ xứ bất ly đương niệm”. Xứ xứ là kết quả bên ngoài, nó không thể thành hình trái ngược, (gọi là bất ly), với tâm niệm bên trong!

Cảnh giới sống của một người từ trong tâm niệm của họ mà hiện ra. Cái xã hội này tốt xấu, thiện ác, lành dữ, thuận nghịch, v.v… đều do cái tâm mà có! Một con người xấu lúc nào cũng nói lời xấu, nghĩ điều xấu, làm việc xấu, vì họ cho rằng tất cả mọi người đều xấu! Họ đối xử xấu với tất cả mọi người, nên nhận lại những phản ứng xấu. Chính vì vậy mà họ đang sống trong một cái thế giới hoàn toàn xấu. Ngược lại, một người có tâm hồn tốt họ thấy tất cả mọi người đều tốt, biết đối xử lịch thiệp, biết thương người, giúp đời, họ được mọi người thương mến, kính trọng, bảo vệ… thì họ đang sống trong một xã hội tốt đẹp. Chỉ có một xã hội (đương xứ), nhưng có người thấy xấu, có người thấy tốt, bởi vì tốt hay xấu là do cái “niệm niệm” trong tâm. Ở những xứ sở nghèo đói, thường có những người ăn mày đói khát bên lề đường, gặp một người có tâm hồn thiện lương thì họ sẽ thương hại, bố thí, giúp đỡ. Gặp một kẻ hẹp hòi thì họ lại chửi là thứ người lười biếng, vô dụng, đáng chết. Cũng là một người cùng đường phải đi ăn mày (đương xứ), nhưng cũng hiện ra hai hình tướng thương hay ghét trái ngược (niệm niệm). Rõ ràng, đương xứ là một nhưng vì tâm niệm khác biệt mà thành ra xấu tốt khác nhau. Nói cách khác, chỉ vì một cái ý nghĩ (đương niệm) mà làm cho ông ăn mày (đương xứ) trở thành một đáng thương một đáng ghét (xứ xứ). Xứ xứ bất ly niệm, niệm bất ly xứ. Những câu nói này một lời vạn nghĩa. Vừa cao diệu vừa thực tế! Cháu hãy cố gắng suy nghiệm thêm sẽ thấy hay vô cùng!

Cháu hỏi về Phật pháp, cậu cố gắng trả lời để giúp cháu hiểu một phần nào vấn đề. Hiểu thêm được một phần là mở được thêm một khung trời sống mới. Dù cháu tự xưng là “ngoại đạo”, nhưng theo cậu nghĩ cháu là người theo phong tục thờ cúng ông bà, chưa quyết định quy y vào một đạo giáo nào thì đúng hơn, chứ không phải là ngoại đạo. Ngoại đạo nên hiểu là lối sống bừa bãi theo vật chất, không có hướng tâm linh, chứ đừng nên cho rằng những tôn giáo khác với Phật giáo là ngoại đạo. Đừng nên có tư tưởng kỳ thị hay phân biệt tôn giáo, không tốt! Nay cháu đã biết thờ Tây-phương Tam Thánh, quý trọng tấm hình của cậu cho, như vậy thì cháu có hướng tâm linh, cháu là người trong đạo. Hy vọng những lời thư này giúp cháu có hướng đi rõ rệt.

Hướng đi đó là gì? Trong thư trước cậu đã nêu ra cho cháu rồi, đó là: Tin Phật, niệm Phật, và nguyện vãng sanh về Tây-phương với Phật. Giả sử như cháu đã quy y với một đạo giáo nào khác đi nữa, thì cậu cũng khuyên cháu nên tin Phật, niệm A-di-đà Phật, và nguyện sanh Tịnh-độ, vì đây không phải là một tôn giáo, mà chỉ là sự giáo dục, hướng dẫn con người nơi chốn để vãng sanh, để thoát ly khỏi sự sống chết khổ đau.

Tây-phương Cực-lạc là nhất chân pháp giới, là phần thưởng chung cho mười pháp giới chúng sanh, không có phân biệt tôn giáo, giai cấp, chủng tộc. Ai có tín hạnh nguyện đầy đủ thì về đó hưởng đời Cực-lạc chờ ngày thành Phật. Thành Phật là thành chính cái chơn tâm của mình chứ không có gì khác. Một người dù đang theo một tôn giáo nào cũng đều có cái chơn tâm, chỉ tiếc rằng vì vọng tưởng, phân biệt, cố chấp mà cái chơn tâm bị che lấp thành ra phải chịu khổ triền miên trong sanh tử luân hồi, đọa lạc bất tận. Cho nên, học Phật là học cách giải thoát, thoát khổ được vui, thoát tử vô sanh, đây là lý tưởng của tất cả tôn giáo đang tìm cầu vậy.

Phật nói, “nhất thiết duy tâm tạo”, cháu tin Phật thì cháu đã có căn lành trong nhiều đời kiếp rồi. Cháu biết niệm “A-di-đà Phật” thì phúc đức của cháu đã lớn lắm rồi. Có phúc đức thì niệm Phật, niệm Phật thì tạo ra phúc đức, cho nên phúc đức lại càng ngày càng lớn. Có tin có niệm Phật thì cháu đã tạo cảnh giới Phật trong tâm. Niệm Phật với lòng chân thành thì phúc báu lại biến thành công đức. Hàng ngày đem công đức này hồi hướng về Tây-phương Tịnh-độ, rồi nguyện cầu hết thân này mình được sanh về cảnh giới đó thì cháu sẽ được vãng sanh về cảnh giới tối thắng của Phật A-di-đà, một cảnh giới tốt đẹp nhất trong tất cả pháp giới.

Hỏi: Liệu văn minh khoa học có khám phá hết mọi hiện tượng kỳ bí không?

Trả lời:

Chắc chắn không! Khoa học không bao giờ có thể khám phá ra tất cả sự thật của vũ trụ này đâu! Khoa học chỉ có thể giúp con người thấy được từng bước, chứng minh từng phần sự thật của vũ trụ nhân sinh, làm rõ thêm những gì đã nói trong kinh Phật. Còn rất nhiều bí mật của vũ trụ nhân sinh mà khoa học chưa thể khám phá ra.

Ngày nay khoa học phát triển rất nhanh, thường khám phá ra những điều lạ, nhưng phát hiện tới đâu họ đều kinh ngạc tới đó, vì tất cả đã nói đến trong kinh Phật rồi. Ví dụ, gần đây nhứt, một tiến sĩ khoa học gia người Nhật tên là Masaru Emoto (Giang Bổn Thắng), thuộc sở nghiên cứu IHM của Nhật, từ năm 1994 đã thành lập một ủy ban nghiên cứu về nước và đã phát hiện rằng nước có thể thấy, nghe, hiểu và biết được, (kiến, văn, giác, tri). Khám phá này đã làm chấn động thế giới. Nhưng thực ra, những điều này trong kinh Phật đã nói rõ từ ba ngàn năm về trước. Khoa học tiến bộ đã giúp cho nhân loại tăng thêm niềm tin về Phật giáo.

Phật nói rằng, “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”. “Chúng sanh” là chúng duyên hòa hợp mà sanh ra. Chúng sanh có loài hữu tình và vô tình. “Hữu tình” là các loài động vật thì có Phật tánh, “Vô tình” là các loài thực vật và khoáng vật thì có pháp tánh. Phật tánh và pháp tánh đều là linh tri, là một chứ không phải hai. Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật nói, “Tình dữ vô tình đồng viên chủng trí”, nghĩa là vạn vật hữu tình hay vô tình đều có đầy đủ tánh linh. Điều này xưa nay ít người tin tưởng, nhưng dần dần khoa học đã chứng minh đây là sự thật.

Dựa theo sự khám phá của tiến sĩ Giang Bổn Thắng, người ta đem thí nghiệm trên bánh mì, đậu, bắp, hoa, lá, v.v… và cũng phát hiện ra hiện tượng tương tự. Nghĩa là tất cả vật chất đều có đầy đủ bốn tính chất: kiến, văn, giác, tri. Chỉ có khác là thời gian để chúng cảm ứng thì dài ngắn khác nhau mà thôi.

Sự thật này đối với nhà khoa học là điều mới lạ, khá bất ngờ! Nhưng họ có biết đâu, hàng ngàn năm qua người ta đã áp dụng kinh Phật trong các việc chữa bệnh, làm thuốc, làm phép, v.v… Bên Phật giáo Tây Tạng, người ta dùng những lời chú phổ niệm vào trong gạo, bấp, bột, nước, v.v… rồi dùng nó để trị bệnh cứu người. Lạ hơn nữa, những vật chất này nếu được luyện cao hơn, chúng có thể hoạt động được, biết biến hóa, có phép thuật, rất linh nghiệm… Có nhiều vị sư bên Mật giáo Tây Tạng, họ chữa bệnh bằng thần chú, người bệnh đến trước mặt họ khai bệnh trạng rồi họ niệm chú phóng vào thân thể chỗ đang bị bệnh. Chỉ vậy thôi, họ có thể chữa trị một số bệnh nan y mà y học hiện đại chưa chữa nổi. Đây là những điều có thực, huyền diệu vô cùng! Vẫn còn rất nhiều điều lạ khác, không thể kể hết!

Vật chất có thể thấy, nghe, hiểu, biết, chúng cảm ứng được hoạt động chung quanh, trong đó nước có cảm ứng khá nhanh, cỡ một tiếng đồng hồ là đủ cho nó thay đổi tính chất. Tiến sĩ Masaru Emoto thí nghiệm được rằng, hình ảnh, âm nhạc, lời nguyện cầu, ý niệm thương ghét, v.v… tất cả mọi hiện tượng chung quanh đều cảm ứng đến nước, làm cho tinh thể của nước hoàn toàn biến đổi. Tinh thể tốt đẹp hay xấu xa là do môi trường chung quanh tốt đẹp hay xấu xa.

Trong Phật giáo, từ ba ngàn năm về trước Phật đã nói, “Y báo chuyển theo chánh báo”. Y báo là vạn vật chung quanh, chánh báo là tâm địa của con người. Con người vui vẻ, hiền lương thì không gian hiền hòa, cảnh vật tốt tươi. Con người sống xấu ác, bất lương thì họ làm ô nhiễm đến môi trường, cây cối khô héo, đất đai khô cằn. Con người và môi trường ảnh hưởng lẫn nhau. Những nhà thuật số biết phong thủy ảnh hưởng đến cuộc sống của con người nên họ có những lời khuyên khá chính xác về địa lý, cách xây nhà, chọn hướng, để cho ta tận hưởng cái khí tốt của thiên nhiên. Nhưng có một sự thật khác nữa, đó là thiện căn phước đức của con người có thể chuyển đổi được địa lý, phong thủy. Những nhà thuật số có thể lập lá số tử vi, đoán vận mệnh kiết hung của một đời người khá chính xác, đây chỉ là sự truy tầm nghiệp nhân để đoán ra quả báo mà thôi. Cái quả đời này họ gọi là số mệnh, định mệnh, lá số tử vi là do cái nghiệp nhân tích tụ từ nhiều đời kiếp trước tạo nên. Cho nên vận mệnh, định số của một người có thể đổi được bằng chính tư tưởng và hành động của con người.

Biết được điều này thì cháu cũng nên phát một tâm nguyện thiện lành, làm người tốt để cảnh giới sống của mình càng ngày càng tốt đẹp hơn. Hãy bắt đầu từ những điểm cụ thể để làm. Ví dụ, ngày hôm qua ta còn khinh người, nay ta biết kính trọng họ; trước đây ta cố chấp đố kỵ, nay sẵn sàng khen tặng điều hay; hãy có tâm biết tha thứ cho người khác, thường bố thí giúp kẻ khó khăn, v.v… Đó là những điều thiện lành nên làm. Trong đó, theo Phật dạy, cái đại thiện trong cái thiện chính là thành tâm tin Phật, niệm A-di-đà Phật, nguyện sanh Tịnh-độ. Vì sao vậy? Vì câu “Nam mô A-di-đà Phật” được gọi là “Vạn đức hồng danh” có thể đưa một người từ trong lục đạo phàm phu đi thẳng về cảnh giới Tây-phương Cực-lạc để thành Phật, một đời thành bậc đại giác, toàn thiện, một đời thoát ly hẳn sanh tử luân hồi, thoát ly tất cả khổ nạn.

Chúc cháu hướng thượng, an vui.

Cậu Năm.
(Viết xong, Úc châu 11/02/04).

Các pháp môn tu hành, không có pháp môn nào vượt pháp môn niệm Phật. Niệm Phật là vua trong các pháp môn. Nếu thiện tín nào nguyện mau thành Phật thì không gì bằng tu pháp môn Tịnh-độ.

(Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi)