Phật pháp là sự hưởng thụ tối cao của đời
người (GS. Phương Đông Mỹ)
Cha má kính thương,
Tết sắp đến con viết thư về thăm cha má. Có
lẽ sau tết con sẽ về, cha má và anh chị em cố gắng sắp xếp thì giờ niệm Phật
với con. Đời này nóng lạnh vài mươi năm, sanh-lão-bệnh-tử, lăn lóc trong trần đời
khổ hải vô biên rồi sau cùng thân xác cũng phải trả về với cát bụi! Cuộc đời
này như mộng, thế gian như huyễn, thân mạng vô thường, tuổi đã về chiều thì còn
lo lắng chuyện đời làm chi? Tạo sự nghiệp gì nữa đây?! Còn tham luyến trần thế
chi nữa mà coi chừng bị vướng nạn. Lỡ vướng nạn rồi thì chịu khổ hàng vạn vạn
năm, thậm chí hàng vạn kiếp!
Vậy thì, cha má ơi! Hãy mạnh dạn buông xả để
lo tu hành. Những thứ ruộng vườn, nhà cửa, tiền bạc, xe cộ, danh vọng, tiếng
tăm, tất cả rồi đây cũng thành số 0! Chỉ còn chăng là khối nghiệp mang theo,
dìm mãi thần thức của ta trong bể khổ! Cha má hãy quyết tâm hàng ngày niệm Phật
cầu mong cuối đời mình được vãng sanh, an nhiên tự tại, hưởng được đại phúc
báu, đại trí huệ ở cõi nhất chân pháp giới, đừng nên chần chờ dụ dự mà lỡ bị
đọa đày thì tội nghiệp cho cha má lắm!
Thưa cha má! Vì biết được con đường viên mãn
đạo quả trong đời, cho nên con phải thưa cho cạn lời, để mong cho cha má thức
tỉnh kịp thời, quay đầu kịp lúc, tự cứu lấy mình. Con đã viết quá nhiều rồi,
nhưng hôm nay con cũng muốn viết thêm vài lời nữa, để củng cố thêm niềm tin cho
cha má vững lòng niệm Phật cầu vãng sanh Tây-phương. Đây là phương pháp cuối
cùng và cũng là cách duy nhất có thể cứu cho cha má thoát khỏi lục đạo luân
hồi, thoát ly sanh tử. Sẵn lời thư này, con cũng muốn phân trần cho tận ý với
tất cả anh chị em, mong mọi người sớm giác ngộ lo chuyện tu hành, làm lành lánh
dữ, trả tròn hiếu đạo, cố gắng hỗ trợ tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cha má
hưởng được cái đại phúc báu của một kiếp người.
Thế giới Tịnh-độ Tây-phương là một thế giới
có thực, chứ không phải là thế giới tưởng tượng. Có thực như có quả địa cầu
này, có nước VN, có làng Đông Lâm vậy… Chỉ có khác nhau là quả địa cầu này ô uế
quá, bệnh hoạn, dơ bẩn, nóng bức, lạnh giá, lụt lội, hạn hán, bụi bậm, ô nhiễm,
tai nạn liên miên. Tất cả đều là cảnh khổ! Còn thế giới Tây-phương thì hoàn
toàn an lạc vui sướng, thần thông tự tại, thọ mạng vô lượng, phước báu vô
lượng, hưởng thụ vô lượng, v.v… Đây là sự thật.
Tại sao lại có sự trái ngược vậy? Vì ta-bà
này là thế giới của tâm vọng động, của tâm tham lam, sân giận, đố kỵ, mê mờ.
Chính cái tâm hiểm ác của loài người đã tạo ra cảnh uế độ. Còn ở Tây-phương
cảnh Phật, là thế giới của những con người thượng thiện, tâm hồn thuần thiện
thuần tịnh, là cảnh giới của Phật, của Bồ-tát, của chân tâm bản tánh. Chính cái
chân tâm đã tạo ra cảnh giới an lành Cực-lạc. Hay nói đúng hơn nữa, đó chính là
quê hương của chân tâm bổn tánh của chúng ta.
Sống trong một xứ nghèo thì người giàu cũng
khổ. Sống trong một xứ giàu, người nghèo cũng sướng. Thế giới Tây-phương là thế
giới “Cực-lạc”, thì phàm phu như chúng ta vẫn có trí huệ, giác ngộ, thần thông,
tự tại, an lạc, phước đức vô lượng như chư Thượng Thiện Nhân. Lời Phật nói
không thể sai, đã có rất nhiều chứng minh cụ thể, đừng nên nghi ngờ mà phải
chịu thiệt thòi quá lớn.
Cha má cứ nghĩ thử, không thể tự nhiên lại
có người biết được năm đó, tháng đó, ngày đó, vào giờ đó họ sẽ ra đi. Có người
họ ra đi tự tại thoải mái, muốn đứng thì đứng, muốn ngồi thì ngồi, như chuyện đùa
giỡn. Thật sự họ đã vãng sanh về với Phật. Nhiều người khi vãng sanh họ báo cho
mọi người biết: “Phật A-di-đà đã tới, tôi đi đây”. Khi ra đi thân thể họ mềm
mại, tươi mát, có ánh sáng, có hương thơm, có hoa nở, có chim kêu, v.v… Tất cả
những tướng lành không thể nào tự nhiên mà có được.
Người đông phương chúng ta thường có chuyện
đoán số “Tử Vi”, thích về “Thuật Số”. Căn bản cũng chỉ là căn cứ vào mệnh số,
lấy nghiệp chướng trong quá khứ để suy đoán tương lai. Điều này cũng đúng, đúng
ở chỗ nếu con người hoàn toàn không có tâm cầu giải thoát mà cứ nằm đó đón nhận
quả báo, chứ chưa hiểu được câu: “Đức năng thắng số”. Tử vi, thuật số không bao
giờ ngờ rằng có cảnh giới Tây-phương vi diệu, thù thắng, trang nghiêm, có đức
Phật A-di-đà tiếp dẫn những người vãng sanh để thành Phật. Họ biết làm lành
lánh ác để hưởng thêm phước báo nhân gian, chứ không biết rằng chí thành niệm
câu “A-di-đà Phật” là đại thiện lành, có thể vượt qua định mệnh, hướng thượng
tâm linh. Chỉ vì tâm phàm mắt thịt của con người bị đóng khung vào hiện tượng
vô thường thế gian mà đời đời phải chịu sanh tử tử sanh, luân hồi đọa lạc,
không có ngày giải thoát!
Tuổi già thân mạng mong manh, xin cha má mau
mau thức tỉnh, con năn nỉ cha má hãy quyết lòng tin tưởng vào lời Phật dạy,
quyết lòng niệm Phật cầu về Tây-phương. Đây là một đại thiện căn, đại phước
báu, đại nhân duyên. Một người con có hiếu không bao giờ dám dối gạt cha mẹ, mà
chỉ mong sao cho cha má được ngày thiện chung.
Làm sao có được nhân duyên, thiện căn, phúc
báu lớn lao này? Rất đơn giản, quyết tâm buông xả thế trần và thiết tha cầu xin
về đó. Tiền bạc, vật chất, hoàn cảnh sống tương đối con cháu chúng con đã lo
liệu sẵn tất cả rồi, cha má hãy yên tâm chuyện này. Hãy quyết lòng buông xả thế
duyên, thung dung an dưỡng, ngày ngày niệm Phật tu hành, để cầu vãng sanh,
không niệm một điều gì khác, thế thôi. Chỉ cần như vậy là có dịp cho cha má
hưởng được một phúc báu vĩ đại vô tận, một thiện quả thù thắng, vượt thoát sanh
tử luân hồi ngay trong đời này để hưởng lấy thọ mạng vô cùng vô tận. Có điều gì
quý hóa hơn! Niệm Phật với lòng thành tín, với chí nguyện thiết tha thì cơ hội
vãng sanh chắc chắn không khó.
Chỉ có một cái khó, đó chính là lòng tin! Vì
thiếu lòng tin mà con người đành tiếp tục chịu khổ trong vô lượng kiếp, mất cả
một cơ hội giải thoát quý báu trên đời. Thật đáng tiếc! Cha má nghĩ coi có oan
uổng không? Đến nỗi cái cảnh vô thường đã đến ngay trước mắt rồi mà có người
vẫn chưa biết, vẫn còn cố bám lấy vô thường để hy vọng hưởng được những cảnh
hão huyền vô thường hơn! Vạn sự đều “Không”, rốt cuộc chỉ là số “0”. Chỉ còn
lại một cái “CÓ” là thần thức, hay đúng hơn là chính ta sẽ tiếp tục còn, hoặc
là giải thoát hoặc bị đọa lạc hàng vạn kiếp mà thôi! Giải thoát thì sung sướng,
đọa lạc thì khổ đau! Vậy mà, cứ giữ lấy cái “Không” làm chi để bị mất tất cả!
Sao không mau mau giác ngộ để lấy lại những gì quý giá nhất của chính mình đã
mất từ vô lượng kiếp đến nay!
Niệm Phật vãng sanh. Người muốn vãng sanh
thì cuộc sống thanh nhàn, tâm hồn thanh tịnh, tâm trung an lạc. Dù đang sống
giữa cảnh trần lao nhưng tâm hồn đã thể nhập vào cảnh đạo. Vãng sanh là trở về
được với cái chơn tâm huệ mạng, lấy lại cái thực thể của chính mình đã bị vùi
dập, đọa đày, khổ nạn bấy lâu nay. Đến ngày được vãng sanh là chủ động bỏ cái
thân xác này để đi về với Phật. Bây giờ đang sống, đến ngày liệng thân xác vẫn
tiếp tục sống, nhưng sống trong thế giới của Bồ-tát, thế giới của Phật, thế
giới đẹp đẽ, trang nghiêm, Cực-lạc.
Còn người chết thì khác, bây giờ đang sống,
nhưng sống trong cảnh khổ hải, lo âu, phiền muộn, sống trong sự phập phồng chờ
đợi cái chết. Khủng bố vô cùng! Thống khổ vô biên! Khi chết rồi đâu phải là yên
thân, nếu lỡ đọa lạc rồi thì từng ngày đối diện với khổ não! Cảnh này đâu có
hay gì mà trông chờ!
Cái thân xác của chúng ta hoạt động là do có
thần thức chiếm ngự bên trong, khi thần thức lìa bỏ thì cái xác thân giống như
khối thịt heo người ta bán ngoài chợ, ăn không hết thì nó hôi, chôn không kịp
thì nó thối. Thế thôi!
Cho nên, người sợ chết thì hãy niệm Phật cho
khỏi chết. Người sợ khổ thì hãy niệm Phật cho tương lai khỏi khổ. Người sợ buồn
thì hãy lo niệm Phật để khỏi buồn… Hãy tranh từng hơi thở để niệm Phật, thiết
tha cầu về cho được tới cảnh giới Tây-phương thì sẽ không có chết, không có
khổ, không có buồn. Đây là sự thật, một sự thật có chứng minh vì rất nhiều
người đã thực hiện được rồi cha má à.
Khổng Tử dạy, “Bất viễn lự tắc hữu cận ưu”.
Người giác ngộ thì hãy sớm lo cho tương lai, nếu chần chừ thì cái họa sẽ đến
ngay trước mắt.
Thưa cha má, lo tương lai không phải là lo
cho cái thân xác sắp sửa bỏ, hay vài thứ thị phi, ơn nghĩa, tiếng tăm giả tạm
trong đời này, mà chính là lo cho cảnh sống trong vô tận thời gian về sau. Cha
má ơi! Cuộc đời này quá vô thường, sáng còn tối mất! Nếu có lâu hơn thì vài
ngày, vài tháng, vài năm nữa, cái thân cát bụi này cũng phải trả về cho cát bụi
mà thôi. Nó là giả thì bắt buộc phải tan hoại, giữ nó không được thì bám theo
nó làm chi! Còn thần thức của mình là thực, là vô sanh vô diệt, nó là chính cha
má đó, thì phải quyết lòng bảo vệ cho thật cẩn thận, để tương lai được sống an
lạc, thanh nhàn, thần thông du hí, năng lực vĩ đại vô biên.
Thưa cha má, con thường nói, mỗi người thọ
mạng đã có sẵn, cầu mong đâu qua khỏi mệnh. Nhưng người không giác ngộ thì cái
tâm tham sống sợ chết nó sẽ hành hạ mình khổ sở cho đến quay cuồng khi còn hơi
thở, khổ sở đến diên đảo khi rời bỏ báo thân, rồi thống khổ đau thương hàng vạn
kiếp trong những cảnh thương đau khác. Sự việc này có chỗ nào là tốt đâu! Chi
bằng, hãy cố gắng tu hành, quyết lòng thoát nạn. Còn chần chờ chi nữa! Còn tham
luyến những cảnh giới khác làm gì?! Mục đích đã thấy rõ ràng rồi, đường đi đã
vạch sẵn, phương tiện đã có trong tay, hãy cố gắng tu hành cho thành đạo! Cơ
hội này quý lắm, đừng để luống qua, trăm ngàn vạn kiếp nữa dễ gì có cơ duyên
gặp lại!
Tháng sáu vừa rồi con về quê, vừa dịp gặp
lúc cô Tám Tâm trong làng đi thăm ruộng bị té, rồi tê liệt thần kinh, toàn thân
bất động nằm chờ chết. Con đến thăm nhìn thấy cảnh tượng mà não nề! Con khuyên
mọi người niệm Phật hộ niệm để cứu cô, nhưng không ai nghe theo. Trong khi đó,
gia đình, bà con, hàng xóm… ngày ngày cứ tới bao quanh than thở, âu sầu, thương
khóc, nói toàn là những lời bi ai, não nuột! Con muốn cứu cô, nhưng cứu không
được. Thật tội nghiệp! Dù thân bất động nhưng chắc chắn thần trí của cô đang
nghe từng lời than thở, hiểu được cái cảnh phũ phàng, đang đắng cay nằm chờ
chết! Thật đáng thương! Nếu trong đời cô thường niệm Phật, ngày ngày đều nguyện
vãng sanh Tây-phương, thì giờ phút này có lẽ cô đã biết rõ đường nào để đi, và
gia đình con cháu cũng biết rõ những gì cần làm, chứ đâu đến nỗi lại diễn ra
cảnh trạng: thấy thân nhân bị nạn mà cứ vô tình làm cho hiểm nạn nặng hơn!
Thưa cha má, cái thần thức huệ mạng của mình
là chính mà con người thường cho là phụ, thành ra sau cùng họ phải cam chịu khổ
đau trải qua hàng vạn kiếp. Còn danh vọng, thị phi, ơn nghĩa, tiếng khen chê
của hàng xóm… những thứ mà họ cho là chính, thì đến sau cùng lại chỉ là số 0!
Tệ hơn nữa, coi chừng nó còn độc hại nguy hiểm vô cùng, vì hoặc là vô tình hoặc
là mê muội, cứ lôi nhau vào đường hiểm nạn đau thương! Phải chăng, con người
trên thế gian này đang khổ tâm tìm cầu những gì giả tạm, còn cái thực của họ
thì lại mạnh tay liệng vào hầm lửa để chịu thiêu đốt ngàn năm!
Cho nên, cần nhanh chóng thức tỉnh, giác ngộ
kịp thời để cứu lấy mình. Đừng vì những tình chấp thường tình mà tự chuốc lấy
khổ đau vạn kiếp!
Vừa rồi con mới nhận được một tin, nói rằng:
“… muốn thờ Phật nhưng sợ phạm lỗi, vì xưa nay đã thờ những vị khác mấy mươi
năm rồi, bây giờ thay đổi thì bị trả quả, bị đọa đày, bị mang tội, phạm thượng,
…”.
Thưa cha má, việc này nếu không giải thích
rõ, nhiều khi cha má vẫn không thể an tâm niệm Phật để vãng sanh. Gần đây,
nhiều thư con đều có đề cập đến chuyện này nhằm gỡ lần những khó khăn thực tế
trong cuộc sống, nhưng đến nay vấn nạn này vẫn chưa được hoàn toàn giải tỏa! Có
lẽ vì vất vả, bận bịu với cuộc sống, nên chuyện huệ mạng trở thành phụ thuộc mà
không ai cẩn thận chú ý đến lời khuyên chăng? Đời vô thường thì làm sao có thể
lần lựa! Lúc còn tỉnh táo mà không lo liệu trước, đợi đến lúc cùng đường, dù có
hối hận, muốn tìm một vài lời khuyên để giải thoát cũng đâu còn gì nữa để mà
tìm! Suốt đời cặm cụi khổ cực, kiếm từng đồng để làm vốn, trong khi đó, những
lời thư này quý hơn vàng mà không chịu tiếp nhận! Uổng thay!
Xưa nay thờ Bồ-tát, thờ Thần Tiên, bây giờ
thờ Phật có bị tội, bị trả quả không?! Xin thưa rằng, đây là một nghi ngờ quá
sai lầm, sai lầm đến chỗ đáng thương, tội lỗi! Cha má là người tu theo chánh
đạo, quyết định đừng bao giờ nghĩ như vậy. Trong những cuộn băng pháp của HT
Tịnh Không, có nhiều lần Ngài nhắc nhở đến chuyện này. Xin cha má hãy tin tưởng
vững chắc vào những lời pháp đó mà tu hành để thành đạo. Một vị cao tăng xuất
thế, họ có thể cứu độ hàng vô số chúng sanh thoát khỏi trần lao. Hàng ngày Ngài
hướng dẫn cho hàng triệu người tu hành qua hệ thống mạng lưới điện toán vi
tính, nếu có điều gì sai trái thì chính Ngài chịu lấy quả báo và bị đọa trước
rồi, chứ đâu đến dịp cha má phải lo! Lời Ngài giảng là lời Phật dạy trong kinh,
Ngài bị đọa chẳng lẽ Phật nói sai sao? Những người không tin lời Phật thì mới
khó tránh khỏi đọa lạc, chứ còn người quyết lòng tin Phật, y theo pháp Phật tu
hành, một lòng niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ, thì mọi người đều an lành vãng sanh
về với Phật, có ai bị trả quả hay bị đọa đày đâu!
Trong niệm Phật đường ở đây, cũng có nhiều
người theo các phái đạo khác tới tu hành, như Thiên Chúa giáo, Cao Đài giáo,
đạo Hòa Hảo, Tiên giáo, Lão giáo, v.v… khi họ ngộ ra sự nhiệm mầu của pháp niệm
Phật, họ cũng tới niệm Phật cầu vãng sanh. Có ai bị trả báo đâu? Ngược lại, có
người đang tu Phật giáo, bỏ Phật để theo Thiên Chúa giáo, theo các đạo khác,
chưa từng nghe ai bị trở ngại. Đây là sự thật.
Xin cha má hãy nhớ rằng, không có một Thiên
Chúa nào lại có tâm thù vặt, không vị Phật hay Bồ-tát nào lại đi hại chết chúng
sanh, không có một vị Thánh, Thần, Tiên, Hiền nào lại có tâm hồn hẹp hòi ích kỷ
cả. Chỉ vì lòng người cứ để tâm phân biệt, chấp trước, rồi lại tưởng các bậc
thiêng liêng cao thượng cũng giống như phàm phu! Đây mới thực sự là điều sai
lầm! Rõ ràng, chính cái vọng tâm của mình đang hại mình thê thảm vậy!
Phật giáo là một nền giáo dục đa nguyên,
không phân biệt. Nếu nghiên cứu kỹ trong lời kinh của Phật thì ta sẽ thấy giáo
lý của Phật bao trùm nhân sinh, vũ trụ, pháp giới, không phân biệt tôn giáo, chủng
tộc, văn hóa, quốc độ. Trước đây 3.000 năm, xã hội Ấn Độ phân chia giai cấp,
đẳng phái, tôn ty, nội ngoại rất nặng. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thị hiện thành
Thái Tử Tất-Đạt-Đa, bỏ ngôi vị thái tử và sống theo cái giai cấp thấp hèn nhất,
ngày ngày cầm bình bát ăn xin, là để quyết lòng xóa bỏ giai cấp, xóa bỏ phân
biệt, để độ tận chúng sanh. Trong Phật giáo không bao giờ có sự kỳ thị tôn
giáo, chưa bao giờ có chuyện “chiến tranh tôn giáo”. Phật dạy vũ trụ, nhân
sinh, pháp giới với ta là đồng một thể, là một chứ không hai. Là một thì đại
đồng, bình đẳng, chứ làm sao có phân biệt, đố kỵ. Vậy thì, làm gì có chuyện thờ
Phật mà các vị khác cạnh tranh!…
Hiểu được cái lý đạo đồng nhất thể thì tất
cả tôn giáo đều có sự liên hệ mật thiết với nhau. Các vị giáo chủ có thể đều là
Phật Bồ-tát thị hiện để cứu độ chúng sanh. Hình thức, danh từ, cách hành đạo
khác nhau để cho hợp với căn cơ, ngôn ngữ, văn hóa, đặc tính riêng mà thôi. Như
vậy, tu cách nào mà chẳng “Đạo”, thờ vị nào mà chẳng “Giáo”, làm gì có chuyện
chống trái nhau!
Tuy nhiên, nếu nói rằng, “Đạo” là con đường giải thoát thì phải biết có đường
ngắn đường dài, có thẳng có cong. Nói về “Giáo” thì có khó có dễ, có sâu có
cạn. Tu hành muốn được diệu pháp thì phải biết điều chỉnh cho hợp lý, hợp cơ,
hợp thời. Người muốn hưởng chút phước báu thế gian thì khó lòng giải thoát,
muốn ở lại cảnh người thì khỏi đi Tây-phương. Tất cả những cảnh giới đều tùy
tâm sở dục. Cảnh nào cũng có chỗ dung thân, nhưng đã là phước hữu lậu của thế
gian, thì lâu hay mau, ít hay nhiều có khác nhau nhưng nhất thiết chưa thoát
vòng sanh tử. Muốn thoát vòng sanh tử thì phải thờ Phật, niệm Phật, cầu sanh
Tịnh-độ thì mới thành Phật.
Phật dạy “Nhất thiết duy tâm tạo”, thì tất
cả đều do chính tâm mình hiển hiện ra. Vật dụng để thờ đều có ý nghĩa biểu
trưng. Hình tượng biểu trưng cho chơn tâm tự tánh; đèn tượng trưng cho trí huệ
quang minh; nhang tượng trưng cho tín tâm, quán tưởng đến ngũ phần pháp thân
Phật: giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến; hoa là nhân, trái cây
là quả, hoa-quả tượng trưng cho nhân quả, nhắc nhỡ rằng trên đời mọi sự đều có
nhân quả; cúng nước tượng trưng cho tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, đừng phân
biệt ganh tỵ; nếu tiếng mõ giúp ta công phu tu hành, nhiếp tâm theo lời kinh
tiếng kệ, thì tiếng chuông giúp mình giác ngộ, hồi tâm tỉnh thức, đừng mê vọng
lầm lạc… Tất cả đều có hàm ý giáo dục. Như vậy tượng thờ không phải tự nó linh,
mà chính là chơn tâm tự tính của chúng ta linh.
Thờ một hình tượng nào thì hình tượng đó ảnh
hưởng đến tâm linh của ta, và sau cùng ta nhập vào cảnh giới đó. Muốn thành
Phật thì phải niệm Phật, thờ Phật. Muốn về Tây-phương thì phải nguyện cầu sanh
về Tây-phương. Muốn đi hướng nào thì ta phải tập hợp tất cả năng lực về hướng
đó. Thờ A-di-đà Phật, niệm A-di-đà Phật thì tâm mình sẽ thành A-di-đà Phật. “Tự
tánh của ta sẽ là A-di-đà”. Thờ A-di-đà Phật thì tương ứng với 48 đại nguyện
của Phật A-di-đà, tương ứng với cảnh giới Tây-phương Cực-lạc. Nội ngoại tương
hợp, cảm ứng đạo giao, nhờ thế mà ta được Phật A-di-đà tiếp dẫn vãng sanh về
Tây-phương Cực-lạc, thành Phật tại quốc độ của Phật A-di-đà. Một đời này viên
mãn thành tựu.
Tất cả đều do tâm. Như vậy, thờ nhiều hình
tượng, niệm nhiều Phật và Bồ-tát có được vãng sanh Tây-phương không? Được!
Nhưng với điều kiện sau cùng phải biết chuyển hướng về Tây-phương. Nếu tâm
không chuyển hướng về Tây-phương thì không thể vãng sanh Tây-phương được. Trong
kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy: “Nếu có chúng sanh trụ vào pháp đại thừa, dùng tâm
thanh tịnh hướng về Vô Lượng Thọ (tức là Phật A-di-đà), thì niệm đến 10 niệm,
và nguyện sanh về quốc độ đó. Khi nghe được pháp thâm sâu liền sanh tin hiểu,
dẫu như đạt được một niệm thanh tịnh tâm, phát một tâm nguyện, niệm đức Phật
đó. Thì người này lúc mạng chung trong mộng thấy được A-di-đà Phật, quyết định
được sanh về quốc độ đó, được bất thối chuyển, chứng Vô Thượng Bồ-đề”. (VLT
kinh, phần cuối của phẩm 24, tam bối vãng sanh).
Kinh pháp đại thừa sâu rộng vô biên, tu pháp
nào cũng được. Nhưng điều quan trọng là phải biết hồi hướng tất cả công đức về
Tây-phương. Lúc lâm chung phải tỉnh táo, phải tin, phải hiểu, phải nguyện vãng
sanh, và phải niệm A-di-đà Phật, thì một niệm, mười niệm cũng được vãng sanh.
Nhưng dễ hay khó? Rất khó! Vì cái tâm đã tập nhiễm những cảnh giới khác, vô
định hướng. Tu xen tạp thì như đứng trước vạn nẻo đường, sau cùng không biết
chọn đường nào để đi! Như ngay lúc còn khỏe mạnh, còn sáng suốt mà phân vân
chưa rõ, thì làm sao lúc lâm chung lại có khả năng chọn lựa! Nghiệp chướng sâu
nặng, oán thân chập chùng, thân tâm đau buốt, gia sự rối ren, mê man bất tỉnh,
v.v… đâu có cơ hội nào cho ta thoát nạn!
Cho nên, niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ vẫn là
pháp môn thẳng tắt, dễ nhất, băng ngang qua tam giới, thoát ly sanh tử luân
hồi, không cần chứng đắc từng đẳng cấp một như theo chiều dọc. Thật bất khả tư
nghì!
Người tu nhiều pháp môn, được may mắn mười
niệm vãng sanh, chỉ vì nhờ thiện căn phước đức sâu dày từ nhiều đời kiếp về
trước bỗng nhiên xuất hiện mới có cơ duyên này. Sự thành tựu này phải hội đủ ba
điều kiện:
Một là, phải tỉnh táo lúc lâm chung, không
được mê man bất tỉnh, không được điên đảo khủng bố;
Hai là, gặp được thiện tri thức khuyên giải;
Ba là, phải phát khởi lòng tin tưởng và
quyết lòng thực hiện.
Thế gian tìm được mấy người có may mắn này!
Người có thiện căn phúc đức rất sâu dày, nhưng khi lâm chung không hội đủ ba
điều kiện cũng không thể vãng sanh.
Xin ví dụ cụ thể cho cha má rõ hơn. Như
chính cha má suốt đời thờ nhiều hình tượng, tu hành làm người hiền lương, cầu
mong được tái sanh làm người, không có ý hướng gì về sự thoát ly lục đạo sanh
tử luân hồi cả. Tu như vậy không phải sai, nhưng chắc chắn rằng, dù có tu giỏi
cách nào đi nữa cũng không thể giải thoát. Tại sao vậy? Vì chính cái tâm muốn
trở lại thế gian thì không thể thoát khỏi thế gian. Phật dạy, “Tam giới vô an,
du như hỏa trạch”, tu cầu được tái sanh làm người là quyết ở lại trong tam
giới, thì phải chịu cảnh bất an, khó bề tránh khỏi bị thiêu, bị đốt! Nhưng may
mắn cuối đời nhờ con cháu hỗ trợ, biết đường thoát ly tam giới, đường vãng sanh
Tây-phương thành Phật. Nếu cha má kịp thời tỉnh ngộ, quyết lòng tin tưởng Phật
pháp, xả bỏ thế đời, quyết chí niệm Phật, tha thiết cầu xin vãng sanh, thì cha
má đã có được tới 2 phần 3 điều kiện để thành đạt rồi.
Như vậy, được vãng sanh thoát vòng sanh tử
đâu phải là khó. Cái chính yếu là mình có quyết đi hay không mà thôi. Quyết đi
thì có cơ hội giải thoát. Ngược lại, còn dụ dự chưa quyết, còn vướng bận cuộc
đời, còn lưu luyến tình cảm, còn đèo bồng chuyện thế gian, v.v… nghĩa là còn
muốn cái khổ nạn trong tam giời thì đành phải chịu nạn vậy! Rõ ràng, hoàn toàn
là do tự mình! Xin cha má suy nghĩ thật kỹ.
Gặp được người khuyên, phát lòng thật sự tin
tưởng làm theo là đi được 2/3 đoạn đường, chỉ còn làm sao cho được tỉnh táo lúc
lâm chung thì được hoàn toàn tương ứng với điều kiện vãng sanh. Làm sao được
tỉnh táo? Thưa cha má, một là buông xả để niệm Phật, hai là hộ niệm.
Niệm Phật là phần người ra đi phải làm. Ngày
đêm niệm A-di-đà Phật, từng giờ từng phút niệm A-di-đà Phật, quyết định không
niệm gì khác. Nhất hướng chuyên niệm A-di-đà Phật nguyện sanh Cực-lạc, mỗi lần
đau bệnh là mỗi lần cầu đi, không sợ chết, không cầu lành bệnh. Nếu tâm cầu
vãng sanh mạnh mẽ như vậy, thì lúc lâm chung dễ được tỉnh táo để theo Phật vãng
sanh.
Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, phần hạ phẩm hạ sanh, Phật nói: “Một chúng sanh
tạo nghiệp bất thiện ngũ nghịch thập ác, đủ các bất thiện. Người như vậy, do ác
nghiệp phải đọa vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp thọ khổ vô cùng. Nếu người này
lúc lâm chung gặp thiện tri thức dùng nhiều lời an ủi, vì nói diệu pháp dạy bảo
niệm Phật, phát lòng tin, chí tâm xưng danh chẳng dứt đủ 10 niệm “Nam Mô
A-di-đà Phật”. Do xưng danh hiệu Phật, nên trong mỗi niệm trừ tám mươi ức kiếp
tội sanh tử. Lúc mạng chung, thấy liên hoa dường như mặt nguyệt trước mặt người
đó. Như trong khoảng một niệm liền được vãng sanh Cực-lạc thế giới”.
Mê man là vì nghiệp chướng báo hại, khủng bố
vì oan gia tấn công, lạc xuống ba đường ác là do ác nghiệp dẫn dắt. Chí thành
niệm Phật thì được chư Phật gia trì, Long-Thiên bát bộ bảo vệ, được 25 vị Hộ
Pháp bảo hộ, chính nhờ thế mà tất cả những thế lực hung hiểm không thể phá hoại
và mình được an toàn vãng sanh theo Phật.
Còn hộ niệm là điều không thể thiếu để bảo
vệ người lâm chung và giữ chánh niệm cho họ. Nếu trong làng có ban hộ niệm thì
quá tốt, hãy nhờ họ tới hộ niệm cho mình. Còn không, thì con cháu trong nhà
phải giữ nhiệm vụ này, nhất định không thể sơ suất. Muốn hộ niệm được dễ dàng
lúc lâm chung, thì ngay bây giờ phải thường xuyên tổ chức niệm Phật chung với
nhau, mỗi ngày một lần thì quá tốt, còn không, ít ra một tuần phải họp lại để
niệm Phật, lạy Phật. Phải tập làm quen với không khí niệm Phật. Phải có công
phu niệm Phật, phải có lòng chí thành mới được cảm ứng đạo giao, mới tương ứng
được với từ lực gia trì của chư Phật, thì tội chướng mới tiêu trừ, phước huệ
tăng trưởng. Tổ chức niệm Phật chung với nhau để khuyến tấn tu hành, củng cố
lòng tin, đến lúc cần thiết thì mọi người đã sẵn sàng trợ niệm cho người ra đi.
Lúc đó, trăm người một hướng, mọi người nhứt tâm, đồng lòng nhất trí niệm Phật
cầu sanh Tịnh-độ. Lực lượng này mạnh lắm, bảo đảm người ra đi sẽ được Phật
phóng quang tiếp dẫn. Có được vậy, mới thấy một đại phước đức trên đời, hằng tỷ
người chưa chắc có ai bì được! Xin tất cả anh chị em hãy cẩn thận suy xét
chuyện này, hãy coi lại thật kỹ những thư nói về sự hộ niệm. Có lẽ con sẽ viết
thêm về sự hộ niệm để giải thích cho rõ hơn. Cầu mong cha má thấu hiểu đạo lý,
mong tất cả anh chị em hãy quyết lòng cứu độ cha mẹ để trọn đại hiếu làm con.
Cứu người là cứu chính mình vậy.
Trở lại việc thờ phụng, Phật dạy, “Nhất
thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”, thì chuyện tốt xấu, họa phước, công tội, v.v…
đều ứng hiện đúng theo tâm niệm của mình. Chính cái tâm mình làm chủ, thế lực
bên ngoài chi phối vào chỉ là khách. Sở dĩ, người khách có đến thăm nhà đều do
người chủ mở cửa mời vào. Tâm thiện lương có khách thiện lương, tâm tà vạy có
khách tà vạy. Họa hay phước đều ứng hợp với tâm địa của chính mình! Thờ một vị
Phật, chính là để tâm của mình hướng về Phật, sau cùng mình thành Phật. Thờ một
vị Thần thì chính mình muốn ở lại trong cảnh giới của vị thần. Thờ đức Lão Tử
là mình muốn tu phép “Vô-Vi” của Tiên gia, thờ đức Khổng Tử là muốn thực hiện
cái hạnh chánh nhân quân tử, “Hữu-Vi” thế gian. Tất cả đều là sở nguyện của
chính ta, chứ các Ngài đã khuất bóng lâu rồi đâu còn ở đây mà kiểm soát hành
động của mình! Cho nên, thờ hình tượng là để soi lại chính bản tâm của mình,
nhắc nhở ta ngày ngày phải noi theo gương đó mà hành đạo.
“Nhất thiết duy tâm tạo”. Phải nắm cho thật
vững lý đạo này. Nếu tâm hồn của mình chánh trực, từ bi… thì tất cả đều trở
thành thân thiện. Nếu tâm hồn xấu xa, hiểm ác, tà vạy thì dù có thờ hình tượng
Phật cũng chỉ gây nên tội, cũng là đường tà chứ có hơn gì đâu! Ma-Phật, Phật-Ma
chính ở tâm của mình.
Ứng dụng đạo lý này vào thực tế rất là hay.
Ví dụ, nếu mình cứ cho rằng những người hàng xóm đều xấu ác, thì ta sẽ không
hòa hợp được với ai và không ai có thể thân thiện được với mình. Một người
thiện lương tốt đẹp, nhưng ta cứ ganh tỵ đố kỵ, thì dù họ có hiền từ cũng trở
thành đối nghịch. Thờ cúng ông bà, nếu ta luôn luôn nghĩ rằng ông bà thương
yêu, bảo vệ, hộ trì thì ta sẽ thấy an vui, có chỗ nương dựa, mỗi lần thắp nén
nhang trước bàn thờ lòng ta sẽ cảm thấy ấm áp, an lành, được sự che chở. Nhờ
vậy mà sắc tướng của ta hỷ lạc, đêm đêm ngủ ngon, nhiều mộng đẹp.
Ngược lại, nếu cứ nghĩ rằng, những người
chết đó sẽ về bắt mình chết theo, hành tội mình… thì vừa thấy tấm hình trên bàn
thờ là bắt đầu run sợ, bị khủng bố. Từ đó mà ăn ngủ không ngon, sắc tướng không
tươi, đêm đêm ác mộng!
Tất cả những hiện tượng này đều do tâm tạo ra.
Phải chăng, chính tâm ta đã biến ông bà thành Tiên-Hiền thiện lành gia trì con
cháu, và cũng chính cái tâm này đã biến họ thành người ác hiểm hãm hại kẻ hậu
lai!…
Một đạo giáo chính nó không có chánh có tà,
mà tà chánh do tâm. Tâm chánh thì pháp chánh, tâm tà thì pháp tà. Nội ngoại
tương hợp với nhau trong đạo nhân quả, duy tâm.
Dựa theo đạo lý này thì chư vị quỷ thần có
trả thù mình hay không đều do chính cái tâm của mình chánh hay tà. Nếu tâm ta
chánh thì có chánh thần phù hộ, nếu tâm ta tà thì có tà thần điều khiển. Cha
đang theo chánh đạo, thờ chánh thần. Chánh thần thì họ đều là đấng chánh nhân,
trượng phu, quân tử. Đã là chánh nhân quân tử thì làm gì có chuyện đi hại chúng
sanh! Chánh thì phải nương theo Chánh Giác, Chánh kiến, Chánh Tri… trong đó Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Như Lai là ngọn đuốc soi đường chung cho chúng
sanh trong thập pháp giới. Thờ Phật là tuyên dương Vô Thượng Chánh Nhân, là đi
đúng đường hướng của tất cả chư vị Bồ-tát, Thánh Thần, Thiên Địa. Họ khen ngợi,
bảo hộ cho ta chứ sao lại nghĩ rằng họ trả thù? Phải chăng tự mình đã nghĩ sai,
tự mình đã tạo lỗi trước. Thật là không nên vậy.
Phật dạy, “Vạn pháp duy tâm”, thì phải lo tu
sửa ngay cái tâm của mình. Cái tâm của mình nghĩ điều tốt thì mình được điều
tốt, tâm của mình tưởng đến điều sai thì đó là tự mình hại lấy mình!
Ngài Thích-Nhất-Hạnh, một thiền sư VN nổi tiếng nói: “Tiếng chuông huyền diệu
đưa về nhất tâm”. Nhất tâm là chánh tâm, nghe một tiếng chuông thì nhất định
phải đổi cái tâm niệm lại, đổi tà thành chánh, đổi xấu thành tốt. Đổi cái tâm
lo sợ bị trả thù, thành tâm được gia trì bảo hộ. Đổi tâm muốn được hưởng phước
báu, thành tâm biết thương người giúp đời. Đổi tâm muốn lăn lộn trong lục đạo
luân hồi thành cái tâm muốn cầu thoát ly tam giới. Đổi cái tâm muốn trở lại làm
người, thành cái tâm muốn thành Thánh Nhân. Đừng cầu mong ở lại làm phàm phu mà
hãy nguyện cầu vãng sanh Tây-phương thành Phật… Tất cả những quan niệm lệch lạc
hãy chuyển đổi lại, thì chắc chắn vạn sự sẽ được tốt đẹp. Cứ đổi theo chiều
hướng tốt đẹp thì sẽ tận hưởng tất cả mọi sự thiện lợi trong đời.
Cha má à! Giải thoát được hay không là do
mình có tỉnh ngộ kịp thời hay không. Chỉ có tự cha má thức tỉnh mới cứu được
cha má mà thôi. Một lần tỉnh ngộ thì thấy rõ đường đi, biết những gì cần làm.
Còn nếu cứ giữ khư khư những quan niệm cá nhân, không chịu nghe theo lời Phật,
thì nghiệp báo của cha cha nhận, khổ hải của má má lo. Con không có tài nào cứu
cha má được. Một khi lỡ bề lạc vào đường hiểm nạn rồi, thì lúc đó dù cho cha má
có rên la, than khóc từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm qua hàng vạn
kiếp, cũng không có một người bạn đạo nào tới thăm lom, không có một người quen
nào tới an ủi, không một đứa con nào có thể tới dâng cho cha má chén cháo đâu!
Đây là một sự thực vô cùng khủng khiếp! Vô cùng kinh hoàng! Vô cùng đau khổ!
Không thể nào nói cho hết lời! Vạn vạn lần xin cha má hiểu cho thấu mà mau mau
thức tỉnh, vững lòng niệm Phật tu hành.
Còn về phần anh chị em, xin nhớ cho, đừng
nghĩ rằng trên đời không có quả báo, chỉ vì ngày giờ chưa tới đó thôi! Cho nên,
xin anh chị em cũng nên cố gắng tu hành, và mau mau hỗ trợ việc niệm Phật của
cha má. Nhắc nhở người quyết lòng niệm Phật cầu về Tây-phương. Nhất thiết không
hẹn, không chờ, không vì một lý do gì mà phải tự hại mình đến chỗ thảm thương!
Trở lại chuyện thờ hình tượng, nếu xưa nay
mình thờ nhiều hình tượng rồi, không nỡ thay đổi thì cũng không cần thay đổi
nữa. Xin nhắn với anh chị em hãy tùy thuận theo cha má, đừng quá lo lắng về
chuyện này. Vì thực ra, nếu gượng ép thay đổi một chút hình thức, mà tâm vẫn
còn ái ngại, còn vướng mắc vào đó thì có ích lợi gì đâu! Tất cả đều do tâm tạo
mà.
Điều quan trọng là ta phải thấy rõ đường nào
giải thoát để quay đầu, còn những hình tượng thờ trên bàn để tỏ lòng kính
trọng, ngưỡng mộ, biết ơn… Cho nên, có thể thờ chung trong một bàn thờ, nhưng
vị trí của Phật phải được tôn thượng, trang nghiêm thì cũng không phải là sự
chống trái. Hẳn nhiên, thờ nhiều hình tượng như vậy dễ làm tâm ta mất chánh
niệm. Tốt nhất vẫn là: chỉ thờ một tượng Phật A-di-đà. Đây là pháp “Quán Tượng
Niệm Phật”, nhất tâm chuyên niệm về một hướng để khỏi bị lạc lúc lâm chung chứ
không phải là sự phân biệt.
Như vậy, thờ nhiều hình tượng khác nhau, tu
nhiều pháp môn khác nhau có được vãng sanh hay không? Có thể được, bằng cách
đem tất cả công đức tu hành được hồi hướng về Tây-phương để cầu sanh Tịnh-độ.
Nhưng dễ hay khó? Rất khó! Khó chứ không
phải là không được. Khó ở chỗ vì tạp tu, tạp tu thì không tương ứng với lời
nguyện của A-di-đà Phật. Đây chính là vì tín tâm không chơn thành, nguyện cầu
không tha thiết, hạnh tu không chuyên nhất, nên công đức hồi hướng về
Tây-phương yếu. Bình thời tâm không trụ nơi câu Phật hiệu, thì khi lâm chung
khó có thể chuyển đổi tâm ý để niệm Phật, không biết cầu về Tây-phương. Hơn
nữa, sẽ bị nghiệp chướng và oan gia trái chủ công phá làm cho tâm dễ bị loạn,
không thể cất lời niệm câu Phật hiệu, vì thế mà không thể vãng sanh. Phật nói:
“Đời mạt pháp, ức ức người tu, khó tìm một người chứng đắc” chính vì chúng sanh
không tiếp nhận được lực gia trì của Phật, bị oan gia nghiệp chướng tự do công
phá. Nghĩ lại thử, liệu ta có may mắn hơn ức ức người đó hay không!? Cho nên
Phật mới nói: “chỉ còn nhờ câu Phật hiệu mà thoát khỏi trầm luân”. Xin cha má
suy xét kỹ.
Một vấn đề khác, “… thờ tượng Phật rồi thì
quí vị khác không dám tới nhà…”. Sự ái ngại này cũng không ra khỏi những lầm
lẫn bên trên! Phật là đấng đại từ đại bi, cứu độ muôn loài chúng sanh, chứ Phật
đâu có bắt tội ai bao giờ mà nói thờ Phật thì “các vị khác(?)” không dám tới
nhà!
Thật ra, điều này cũng có một phần đúng. Chư
Phật Như Lai cứu độ chúng sanh trong thập pháp giới không xả bỏ ai hết. Một
người dù ác tới đâu, nhưng khi biết sám hối, biết quay đầu cải ác làm thiện thì
đều có thể tu hành, lạy Phật, niệm Phật để được độ thoát. Người nào không muốn
làm lành, chỉ muốn làm ác thì chắc chắn sẽ bị Long Thiên, Hộ Pháp đuổi ra.
Ngay đối với chính mình cũng vậy, mình thờ
Phật, nếu có cái tâm thiện lành chân chính thì được Long Thiên và Hộ-Pháp bảo
hộ. Còn nếu có tà tâm, ác hạnh thì dù có thờ tượng Phật thật lớn cũng không có
sự gia trì. Dù cho Thần, Hộ-Pháp không đuổi mình ra được (vì đây là nhà của
mình), nhưng chắc chắn không một vị Thiện Thần nào lại đi bảo hộ người tà ác.
Thiện Thần không giúp thì tai ương từ đâu đến chắc cũng không khó đoán!
Nói tóm lại: thờ Phật chỉ có tốt chứ không
có xấu, còn nếu bị xấu là do tâm hành của mình xấu, điều này không liên quan
đến việc thờ Phật. Chánh-Tà đều do tâm, Họa-Phước đều do tâm, thì một vị nào
đến với mình là tốt hay xấu cũng đều do tâm của mình mà ra. Thế thì có chi phải
ngại chuyện này!
Để vấn nạn này được giải quyết rõ hơn, con
xin trích một một đoạn của thông báo về “Cứu độ những chúng sanh khổ nạn” do HT
Tịnh Không mới vừa đưa ra cho Hội Tịnh Tông thực hiện, nhằm kêu gọi tất cả đồng
tu mở lời giảng pháp của Ngài suốt đêm để cho chúng sanh trong hư không pháp
giới nghe. Thông báo ấy nói rằng:
“…………………………….
… chúng sanh trong hư không pháp giới là một thể. Là đệ tử của Phật, hôm nay
chúng ta may mắn được nghe Phật pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng
sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong
nhiều đời nhiều kiếp.
Con người đến lúc lâm chung, những oan gia
trái chủ sẽ thường hiện thành những người thân thuộc đã qua đời của quý vị để
đến tiếp dẫn, đến để trả thù, thanh toán quý vị, đến đánh phá quý vị và làm
chướng ngại, không cho quý vị vãng sanh về nơi tốt lành. Oan oan tương báo như
thế đến lũy kiếp cũng không thể cùng tận. Thật là khổ không kể xiết!
Ngày nay chúng ta may mắn hiểu rõ và giác
ngộ thì phải dùng cái tâm chí thành để hóa giải tất cả mọi oan kết. Cầu chư
Phật, Bồ-tát gia hộ, khiến cho họ cũng có cơ duyên nghe được Phật pháp, hầu hóa
giải những đối nghịch oan trái, hóa thù thành bạn, hóa oán thành thân, từ đây
trở về sau mãi mãi là bạn đạo trên đường Bồ-đề để đồng thành Phật đạo và cùng
nhau cứu độ chúng sanh.
Phàm là những người cầu học, chỉ cần chúng
ta bắt tay vào việc liền có thể khiến cho tất cả chúng sanh trong pháp giới
được nghe pháp và đạt lợi ích. Vì sao chúng ta lại không cùng nhau bắt tay vào
việc? Nghĩa là mỗi đêm phát thanh về Phật học giảng thuyết, để từ đó có thể
rộng độ chúng sanh đang khổ nạn đều có cơ hội thính pháp nghe kinh, để rồi được
cùng nhau bước lên con đường lìa khổ đạt vui, cuối cùng là phát nguyện cầu sanh
thế giới Tây-phương Cực-lạc, thoát khỏi cảnh khổ của lục đạo luân
hồi.……………………………”
Đây là một đoạn thông báo cho đồng tu của
riêng Hội Tịnh Tông Thế giới đêm đêm mở kinh pháp để cho tất cả chúng sanh
trong hư không pháp giới tới nghe, hầu giúp họ giác ngộ, hóa giải oan gia trái
chủ, hóa giải kiếp nạn thế giới. Chương trình này lấy giảng ký kinh Địa Tạng
làm chính.
Chúng sanh này là tất cả hữu tình trong pháp
giới, có thiên địa, quỷ thần, yêu ma, oan gia trái chủ, v.v… Người nào có tâm
cải ác làm lành thì tới, người nào không có tâm hướng thiện thì tự họ lánh xa.
Tất cả Yêu, Ma, Quỷ, Thần, v.v… cũng là chúng sanh trong pháp giới, có người
cũng biết tu hành, có người không tu. Người không tu họ thích hợp những chỗ
không thờ Phật, người biết tu họ tìm về những nơi thờ Phật để hộ trì. Như vậy,
nhà nào có chân chánh thờ Phật thì sẽ có Thiên Thần, Hộ-Pháp bảo hộ, chúng ta
đâu cần lo đến chuyện người đến kẻ đi!
Phật dạy “Y báo theo chánh báo chuyển”. Y
báo là môi trường chung quanh, chánh báo là chính mình. Tâm mình biết thành tâm
tu hành thì tự nhiên chuyển hóa hoàn cảnh chung quanh. Ý tưởng, hành động, môi
trường, con cháu, hàng xóm, người thân, đạo hữu, và ngay cả chúng sanh trong hư
không pháp giới cũng từ từ chuyển hướng thuận theo người tu hành. Cho nên, càng
tu hành càng có công đức, một là cứu mình, hai là cứu được những người chung
quanh.
Cũng nên chú ý một điều, thông báo bên trên có một đoạn khai thị rất quan
trọng:
“… Con người đến lúc lâm chung, những oan
gia trái chủ sẽ thường hiện thành những người thân thuộc đã qua đời của quý vị
để đến tiếp dẫn, đến để trả thù, thanh toán quý vị, đến đánh phá quý vị và làm
chướng ngại, không cho quý vị vãng sanh về nơi tốt lành…”.
Niệm Phật cầu vãng sanh Tây-phương Cực-lạc
thì vị tiếp dẫn ta là Phật A-di-đà, hoặc có đủ Tây-phương Tam Thánh, hoặc có chư
Thánh chúng Tây-phương. Nghĩa là chư vị Bồ-tát hoặc Thánh chúng cõi Tây-phương
tùng theo đức A-di-đà đến tiếp dẫn. Khi đau bệnh, ta quyết một lòng niệm Phật
cầu Phật A-di-đà đến tiếp độ, đừng nên xao lãng. Ngoài A-di-đà Phật ra không
được đi theo bất cứ một vị nào khác. Nếu không chú ý điều này, rất dễ bị oan
gia trái chủ gạt mình vào cái bẫy của họ để trả thù, ví dụ như hóa thành ông
tiên, bà chúa, ông bà, cha mẹ, v.v… tới rủ mình đi theo. Nên nhớ bất cứ trường
hợp nào ta vẫn cứ bình tĩnh, đừng nghĩ tới họ, đừng nhìn tới họ, một lòng niệm
Phật thì có thể hóa giải tất cả vậy.
Thôi, xin cha má và anh chị em hãy đọc lại
thư này thêm lần nữa. Đường thành đạo đang ở trước mắt. Cơ hội giải thoát đang
có trong vòng tay. Chơn tín lời Phật dạy, thiết nguyện vãng sanh Tây-phương,
một lòng thành tâm niệm Phật thì từ đây ta bắt đầu thành Phật, một đời này
thành Phật chứ không cần đợi đến đời sau. Nguyện cầu cho thiện căn phước đức
của mọi người hiển hiện để cơ duyên đều được tròn giải thoát.
A-di-đà Phật,
Con kính thư.
(Úc châu ngày 12/01/04).
Kinh Lăng Già Mật
Nghiêm chép: “Thà khởi cái thấy ‘Có’ như núi Tu-Di, đừng khởi cái thấy ‘Không’
dù chỉ bằng hạt cải”. Cái thấy ‘Có’ nghĩa là tin nhân quả, giữ tư tưởng Phật.
Khởi thấy như thế được sanh về cõi Tịnh-độ Cực-lạc, nên bảo: “Thà khởi thấy
Có”.
Khởi thấy ‘Không’,
nghĩa là bài bác nhân quả, hủy báng niệm Phật. Khởi thấy như vậy chắc chắn sanh
vào A-tỳ địa ngục, nên răn bảo: “Đừng khởi thấy không”. Đây là điều đáng sợ
vậy!
(Kinh Niệm Phật Tam
Muội – Bảo Vương Luân).