Vạn pháp giai không, nhân quả bất không.(Lời
Phật dạy).
Kính Cha Má,
Sắp sửa có người về Việt-Nam, con gửi thư về
thăm cha má cộng với mấy băng thuyết pháp, và mấy món quà nhỏ cho em Thứ niệm
Phật. Trong anh chị em nhà mình đã có người nghe theo lời con khuyên vậy cũng
là đại phước rồi. Em Thứ niệm Phật, em Thứ được hưởng thiện lợi, cha má niệm
Phật cha má được hưởng thiện lợi. Ai tu nấy đắc, không ai tu giùm cho ai được
cả. Cái lo lắng lớn nhất của con hiện giờ là cha má tuổi già sức yếu, viêc tu
hành giải thoát trở thành vấn đề tối cấp bách và quan trọng. Khi cha má nhận
được một số băng thuyết pháp thì cố gắng nương theo đó tu tập, những thư này
chỉ là cái mối đầu cho cha má tiếp nhận lời pháp thôi.
Trong suốt thời gian qua con liên tục viết
thư về cha má, cũng chỉ nhắm tới một chuyện là cố gắng khơi cho được cái đầu
mối đó, để từ đó cha má đi vào con đường Phật đạo, pháp môn giải thoát. Khả
năng của con nhiều lắm cũng chỉ giúp cha má thấy rõ cái đầu mối đó thôi, còn có
ngộ nhập vào sự giải thoát hay không hoàn toàn tùy theo quyết tâm của cha má,
chứ con không thể nào đi giùm cho cha má được.
Nhận thư, con không biết cha má có giờ đọc
không? Có thích thú không? Có nhận thấy được cái tầm quan trọng của nó không?
Nếu càng đọc mà cha má càng cảm thấy vui, cảm thấy phấn khởi thì con mừng lắm,
một ngày rất gần cha má sẽ thấy được sự an lạc vì tìm được nguồn sáng để đi.
Còn nếu ngược lại, thì đó là do căn phần của cha má. Cha má cứ bình tĩnh, thoải
mái, rồi suy nghĩ lại. Dù sao đi nữa con cũng moi đến tận đáy lòng chí thành
chí hiếu để nói. Biết như vậy cha má cũng nên có lần giựt mình nghĩ lại, mỗi
lần giựt mình hãy bảo em Thứ, hay em Mười đọc lại thư của con. Đọc đi đọc lại
nhiều lần, biết chừng đâu, một ngày nào đó cha má sẽ liễu ngộ. Ở đây, con vẫn
hằng cầu chư Phật gia trì cho cha má.
Ngày hôm kia, tức là ngày 17/4/2001, Thầy
Ngộ Thông đi giảng pháp ở Sydney về, thầy nói
với tụi con rằng, “Phật tử Sydney
họ tu rất tinh tấn. Họ niệm Phật không còn lấy số ngàn nữa, mà đơn vị là vạn.
Nghĩa là mỗi ngày họ tự đặt tiêu chuẩn một vạn, hai vạn, ba vạn, có người niệm
đến năm vạn câu Phật hiệu một ngày”. Càng ngày họ càng quyết tâm tu hành, họ
quyết tâm đi cho đến Tây-phương Cực-lạc với Phật A-di-đà mới thôi. Ở Việt-Nam,
mình khó thấy, khó nghe, khó hiểu chuyện này. Nhưng, khi đi ra ngoài dạo khắp
nơi, con bừng tỉnh, ngỡ ngàng trước những tâm hồn cương quyết, chí thành, chí thiết.
Thì ra, trong kinh Phật nói, con số nhân
thiên vãng sanh về Tây-phương vô lượng vô số, không thể nào đếm hết, đó là sự
thưc. Có một quyển sách tựa đề là “Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá lợi”, con sẽ
chuyển về cho cha má đọc, trong đó có những người Việt-Nam vừa mới vãng sanh
mấy năm nay. Số người ghi trong sách là thu thập được, còn biết bao nhiêu người
vãng sanh khác mà chưa thu thập. Khi sách ấy tới Úc-châu, người đọc được họ
phát tâm tu hành rất nhiều. Con người là vậy đó, Phật dạy rõ ràng trong kinh không
chịu tin, phải chờ cho có bằng chứng rồi mới phát nguyện Niệm Phật. Đó cũng còn
may, có người vẫn không tin, tìm đủ lý lẽ để từ khước. Sự thật là gì? Là chính
nghiệp chướng quá nặng, che lấp mất cả tánh giác ngộ, vì vậy họ vẫn chưa chịu
cúi đầu lạy Phật, chưa chịu gội rửa tội chướng của mình. Tội nghiệp thay, biết
bao giờ họ mới thoát nạn đây?
Thấy cái tác dụng của quyển sách khá cao,
quý Sư ở Sydney
mới kêu gọi cho ấn tống tiếp. Quý Thầy muốn bổ túc thêm mấy người nữa cũng vừa
vãng sanh, trong đó có một bà cụ vãng sanh cách đây cỡ một năm, bà cụ này con
đã từng gặp. Bà là người Việt gốc Hoa. Cách đây cỡ năm năm, bà bị ung thư đến
thời kỳ chót, bệnh viện cho về nhà chờ chết trong vòng hai, ba tháng. Bà may
mắn gặp người ta khuyên: buông xả cái thân rã thối này đi cho rồi, niệm Phật
cầu sanh về Tịnh-độ để một đời này về với Phật, thành Phật, thì hay hơn không!
Bà tin tưởng, không thèm dùng đến thuốc thang nữa, một lòng niệm Phật cầu sanh
Tây-phương. Bà niệm Phật ngày đêm cầu cho chết sớm. Thế nhưng hai tháng, ba
tháng, một năm, hai năm, ba năm trôi qua, bà chờ chết mà không chết, ngược lại
sức khỏe bà càng ngày càng tốt.
Năm 1999, bà lên Brisbane
dự khóa niệm Phật mười tuần tại niệm Phật Đường ở Brisbane. Con gặp được bà trong dịp này. Năm
2000, bà vãng sanh, lưu lại rất nhiều xá lợi. Ngày vãng sanh con cũng có nghe,
nhưng Sydney và Brisbane cách xa cả ngàn cây số cho nên con
không tận mắt chứng kiến. Xá lợi của bà hiện phân phát thờ ở các chùa ở Sydney. Tính ra thời gian
bà niệm Phật khoảng hơn bốn năm.
Thưa cha má, sự vi diệu của pháp niệm Phật
khó diễn tả được! Bà Bác đó niệm Phật cầu cho chết, vô tình bà thoát cái chết
từ ba tháng trở thành bốn năm rưỡi. Bà thoát khỏi tử thần bệnh ung thư, để
hưởng trọn tuổi dương tám mươi lăm tuổi rồi về với Phật. Rõ ràng “Nhất cú Di-Đà
vô biệt niệm, bất lao đàng chỉ đáo Tây-phương”. Niệm một câu “A-di-đà Phật” cứu
mình vượt khỏi lục-đạo luân-hồi, vượt ra ngoài Tam-giới (dục-giới, sắc-giới,
vô-sắc-giới), đi thẳng về Tây-phương với Phật. Chuyện này còn nghi ngờ nữa sao!
Ngài Ngẫu-Ích Đại sư, Tổ sư đời thứ chín
Tịnh-độ Tông, khai thị rằng: “được vãng sanh là nhờ TÍN và NGUYỆN. Phẩm vị cao
hay thấp nhờ công phu niệm Phật sâu hay cạn”. Như vậy, một người chỉ cần có
lòng TIN vững chắc và chí NGUYỆN tha thiết thì được vãng sanh. Còn niệm Phật là
để cho phẩm vị cao hay thấp mà thôi. Đây là sự thật. Có người nghe vậy mới nói,
bây giờ mình chỉ “Tin” Phật rồi “Nguyện” vãng sanh thôi, đâu cần gì niệm Phật,
mình cũng về Tây-phương vậy! Xin thưa thẳng rằng, không thể! Tại sao? Vì khi đã
có tư tưởng như vậy thì cái TIN đó là giả chứ không phải thật. “Tin” một vài
bữa và sau đó thì bỏ luôn. Tin giả thì không bao giờ siêu sanh được cả. Vì
người tin Phật chắc chắn không bao giờ dám quên Phật.
TÍN thì phải tìm mọi cách giữ vững lòng tin,
củng cố nhắc nhở lòng tin. Trong tâm không bao giờ ly xa Phật, nghĩa là phải
niệm Phật. Niệm Phật để nhớ Phật, niệm Phật để làm Phật, niệm Phật để tâm thanh
tịnh, niệm Phật để khống chế phiền não... Niệm Phật để tâm mình chỉ còn có
Phật, ngoài Phật ra không còn thứ gì khác lọt vào tâm cả. Đó mới là TIN PHẬT.
Phật tức Tâm, Tâm tức Phật chính là chỗ này đây. Đạt đến cảnh giới này mới chắc
chắn về tới Tây-phương thành Phật. Còn người chỉ nói TIN suông mà không niệm
Phật, thì Tin đó là miệng tin chứ không phải tâm tin, dù họ có nhớ Phật, chắc
chắn cũng chỉ nội trong một vài ngày, thậm chí vài phút thôi, sau đó tâm họ đã
bắt đầu điên đảo, thị phi, bắt đầu hơn thua xả láng rồi. Hễ không niệm Phật thì
sẽ niệm tiền bạc, niệm cuốc đất, niệm vườn rau, niệm yêu thương, niệm ganh tị,
niệm buôn bán... lúc đó Phật đâu còn nữa! TIN như vậy, dù lúc mới phát khởi có
cao như núi, nó cũng sụp đổ tan tành theo nghiệp chướng phiền não thế gian.
Lòng TIN sụp đổ rồi thì NGUYỆN kia làm sao còn tồn tại?
Ấy thế, Ngài Ngẫu-Ích nói TÍN là Thành tín,
là Thâm tín, là Thực tín... chứ không phải là sơ tín, tùy hứng tín. Có thực tâm
TIN mới có thiết tha phát NGUYỆN. Đã thiết tha về Tây-phương rồi thì ai dám lơ
là việc niệm Phật. Vì thế TÍN-NGUYỆN-HẠNH tuy ba mà một, một mà ba. Được một
điều thì tất cả ba điều đều đầy đủ vậy.
Niệm Phật tới “Nhất tâm bất loạn” thì vãng
sanh Thượng Phẩm. Nhưng thực ra dễ gì đạt được cảnh giới đó. Như vậy làm sao
vãng sanh dễ dàng được? Thưa cha má, Đới-Nghiệp vãng sanh. Nghĩa là nghiệp
chướng vẫn còn, nhưng nhờ gia lực của Phật mà được vãng sanh. Đây là một điều
kiện di dân vô cùng thù thắng, mà đức Phật A-di-đà đã phát nguyện để cứu độ
chúng sanh. Đây là phương tiện độ sanh cực kỳ vi diệu, cực kỳ rốt ráo, nên tất
cả chư Phật mười phương đã đồng thanh hộ niệm. Chính vì thế mà câu Phật hiệu
“Nam-mô A-di-đà Phật” đã trở thành một siêu lực lượng, không thể nghĩ bàn, có
thể cứu độ tất cả chúng sanh trong cửu pháp giới, từ Đẳng-Giác Bồ-tát cho đến
địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh, một đời bình đẳng thành Phật.
Cho nên, một người chỉ cần có lòng TÍN Tâm
nơi Phật vững chắc, phát NGUYỆN vãng sanh thiết tha chân thực, thì tự họ thấy
rõ con đường đi, tự họ ngày đêm không rời câu Phật hiệu. Bao nhiêu người vãng
sanh một cách tự nhiên, trước sự ngỡ ngàng của khoa học. Cái năng lực này chỉ
có Phật mới làm nổi thôi. Sự việc này đã vượt xa tri thức của nhân loại, muốn
giải thích cũng giải thích không được! Muốn tìm hiểu không thể hiểu nổi! Phật
nói, đây là pháp môn “nan tín chi pháp”, dù cho hàng Bồ-tát cũng không thể hiểu
được, chỉ có Phật với Phật mới hiểu thôi, Bồ-tát cũng chỉ có thể dùng lòng TIN
mà vào đất Phật.
Trong giảng ký của Hòa Thượng Tịnh Không, có
một đoạn Ngài nói: “Phát tâm Bồ-đề tức là phát đại nguyện cầu vãng sanh. Tâm
nguyện cầu vãng sanh này tức là tâm Bồ-đề Vô-Thượng. Một mực chuyên niệm, nhất
tâm về một phương hướng chuyên niệm Phật A-di-đà. Người như thế chính là
“Đương-Cơ”. Chỉ cần phù hợp tiêu chuẩn này không có một người nào không vãng
sanh. Do đó Đại sư Thiện-Đạo nói, "Một trăm người tu một trăm người vãng
sanh, một ngàn người tu một ngàn người vãng sanh, gọi là muôn người tu muôn
người chứng”. Đại sư Thiện-Đạo là đệ nhị Tổ-Sư Tông Tịnh-độ, người đời Đường,
Ngài chuyên Niệm Phật, có lần Ngài niệm Phật cứ mỗi câu Phật hiệu từ trong
miệng phát ra một đạo hào quang dài, câu này tiếp câu khác hào quang tiếp tục
kéo dài như vậy. Thật không thể tưởng tượng được!.
“Trăm người tu trăm người chứng, ngàn người
tu ngàn người chứng”. Câu nói giống như trò đùa, nhưng đó là sự thực. Ngài
Vĩnh-Minh Diên-Thọ, là Phật A-di-đà tái lai, cho nên trong nhà Phật lấy ngày
vía Ngài làm ngày vía đức A-di-đà. Ngài là một thiền sư, nhưng khi ngộ đạo lại
ngộ từ câu Phật hiệu “Nam-mô A-di-đà Phật”. Khi thấy hàng đệ tử so đo giữa
Thiền và Tịnh, Ngài cảnh cáo rằng: “Hữu Thiền vô Tịnh-độ, thập nhơn cửu tha lộ,
Vô Thiền hữu Tịnh-độ, vạn nhơn đắc vạn nhơn”. Những người niệm Phật cầu sanh
Cực-lạc Thế-Giới, nếu cứ một lòng trung thành niêm Phật, không một người nào
không đắc đạo. Thế gian chưa có pháp môn nào vi diệu, kỳ lạ như vậy được!
Khi đã hiểu được lý đạo nhiệm mầu rồi, cha
má mới thấy người niệm Phật là người có thiện căn phúc đức sâu dày nhất trong
tất cả mọi giai cấp chúng sanh. Những người dù có giỏi tới đâu, có danh vọng
địa vị cao tới đâu, có tu hành lâu tới đâu, có chức sắc lớn tới cỡ nào, nếu
không niêm Phật, theo như Ngài Tịnh-Không nói, “đó cũng chỉ là người tầm thường
mà thôi!”. Chức quyền càng lớn càng tạo nhiều ác nghiệp, quả báo chắc sẽ là tam
ác đạo. Người mà say sưa làm giàu, đến khi mạng chung, vì họ tiếc của, nên rất
dễ dàng đầu thai thành những con vật giữ của, như con chó chẳng hạn, hằng ngày
cứ lảng vảng trước nhà để giữ của. Oái oăm thay, giả như họ sinh ra những đứa
con vô đạo, thích ăn thịt chó, thì hậu quả còn thê lương biết chừng nào!... Như
vậy họ làm sao sánh bằng với bà bác bị bệnh ung thư, tám mươi lăm tuổi, niệm
Phật vãng sanh ở Sydney.
Thưa cha má, cuộc đời như áng phù vân, thì
sao còn chấp vào đấy để ngàn đời mê muội sầu đau! Thư trước con có gởi về cha
má hình của Hòa-Thượng Tịnh-Không, con chụp Ngài trước di ảnh của bà Hán làm
quản tràng của Hội-Tịnh-tông. Bà Hán là một đại triệu phú ở Đài-loan và
Tân-Gia-Ba. Tài sản của Bà nghe nói phải giựt mình. Thế mà khi ngộ đạo, bà đem
hầu hết tài sản ra cúng dường cho người niệm Phật. Bà xây dựng nhiều đạo tràng,
bà nuôi hàng trăm Tăng Ni, nuôi tất cả những người đến đạo tràng niệm Phật,
không nhận một đồng phí tổn. Bà đem tài sản tính bằng đơn vị bạc triệu đô-la,
mà bà đã khổ công kiếm được suốt đời ra chỉ để mua cho được một tấm vé về
Tây-phương Cực-lạc với Phật A-di-đà. Ở Mã-lai, có những người ngộ đạo, họ dốc
hết tài sản cả mười triệu đô la để xây đạo tràng, để in kinh, in tượng Phật,
cúng dường cho mọi người niệm Phật. Một khi đã liễu ngộ đường giải thoát rồi,
thì tất cả tiền tài, danh lợi, ơn nghĩa của thế gian trở thành cái chướng ngại
đáng kể, trói buộc con người trong luân hồi lục đạo, cho nên họ tìm cách xả bỏ
cho hết để tạo phước đức, lót đường về tới cảnh giới Tây-phương. Nhìn thấy
những tâm Bồ-tát đó, nghĩ lại những người đi cuốc từng lát đất, làm thuê từng
ngày để kiếm từng bữa cơm, mà tâm vẫn cứ hách dịch, vẫn cứ cho cuộc đời này là
sướng, là sang, không thèm nghĩ đến cơ giải thoát. Đây không phải là điều đáng
thương sao?!
Thưa cha má, tới ngày hôm nay tất cả thư con
gởi về chỉ nhắm tới một điều là để củng cố niềm tin vững chắc cho cha má mà
thôi. Có được niềm tin vững rồi thì con từ từ gởi dần tài liệu Phật pháp về để
cha má nghe, theo đó mà tu tiến. Thường thường, từ trước tới giờ mình sống
chung hòa với bà con hàng xóm, ít người hiểu đạo. Họ đều mơ hồ trong sự giải thoát,
nên khi nghe nói đến Tây-phương Cực-lạc, thì ai cũng nghĩ đến chuyện chết, họ
sợ đến hồn vía. Hễ không biết Phật, không hiểu đạo, họ thường bàn chuyện tầm
phào, làm lung lay chí nguyện vãng sanh của mình. Nếu cha má không vững lòng
tin, không quyết tâm đi thì tiếc cho một đời làm lành, đọa lạc vẫn hoàn đọa
lạc. Bao nhiêu lời tha thiết khẩn cầu của con hướng về cha má sẽ tan theo mây
gió. Nên nhớ, ăn chay, làm lành không phải là chánh yếu của tu hành. Làm lành
mà không có trí tuệ vẫn dễ tiếp tay cho tội ác, tạo nghiêp đọa lạc trong sinh
tử luân hồi. Còn khi niệm Phật thì tự nhiên làm thiện, nhưng thiện này được soi
sáng bởi quang minh của Phật, không thể sai lạc được.
Cha má ơi! Đời vô thường sáng còn tối mất,
lỡ một dịp rồi, thời gian phải tính bằng KIẾP, (nghĩa là hàng triệu triệu đời)
luân-hồi chứ không phải đơn giản. Lúc đó dù con có thương cha má tới đâu, có
thành khẩn tới đâu, có moi luôn quả tim này bầm nhuyễn, đắp thành chữ A-DI-ĐÀ
PHẬT để cầu cho cha má siêu sanh cũng khó mà cầu được, cha má có hiểu không?
Trở lại chuyện niệm Phật, Phật dạy chỉ cần
mười niệm trước khi lâm chung thì chắc chắn được vãng sanh. Xin cha má hãy lập
thệ đi, quyết thề rằng sẽ niệm cho được mười câu “A-di-đà Phật" trước khi
rời bỏ thân xác này. Chỉ thế mà thôi, đủ rồi. Ở đây chính con cũng vậy, con
quyết thề dứt khoát phải niệm cho được mười tiếng Phật hiệu A-di-đà Phật trước
lúc con lâm chung. Phật A-di-đà đã phát nguyện rằng, người nào “phát nguyện
sanh về nước ta, dẫu đến niệm được mười niệm, nếu không được vãng sanh, Ta thề
không thành bậc Chánh-Giác”. Như vậy, mình niệm mười niệm trước khi lâm chung,
thì chắc chắn được vãng sanh. Phật đã nói ra một lời không thể nào Ngài quên
được. Tuyệt đối Phật không bao giờ vọng ngữ, thì mình còn ngồi đây đặt vấn đề
làm chi?
Tuy nhiên,có điều đừng nghĩ rằng niệm mười
niệm là dễ dàng. Người mà bình thời không niệm Phật, thì đến thời điểm quan
trọng nhất không thể nào niệm được đâu, dù một niệm, dù một phần mười niệm. Vì
thế,người tu niệm Phật họ thường chuẩn bị rất chu đáo. Họ tranh thủ từng chút
thời gian để niệm Phật, niệm càng nhiều càng tốt, niệm thành thói quen, niệm
thành một thứ phản xạ tự nhiên, họ trói tâm họ với danh hiệu A-di-đà Phật. Lúc
nằm xuống giường, họ cứ thầm niêm Phật cho đến khi thiếp luôn. Khi thức giấc,
niệm Phật liền. Người biết niệm Phật không sợ mất ngủ, càng mất ngủ họ càng
thích vì họ có thêm giờ để niệm Phật. Đến một lúc nào đó ngay trong giấc ngủ họ
vẫn niệm Phật như thường.
Ở Sydney, có người tự nguyện niệm năm mươi
ngàn câu Phật hiệu mỗi ngày, có người hứa còn thở, còn niệm Phật. Chính con
đây, nếu ngày nào không đi làm con niệm đến hai ba chục ngàn câu là chuyện dễ
dàng. Còn đi làm thì khi có giờ rảnh con niệm, cứ niệm liên tục, không cần đếm,
một hơi thở ít nhất là một niệm. Mình phải tập sự niệm Phật để cho câu Phật
hiệu xuất hiện trong tâm liên tục, tự nhiên như cái máy niệm Phật con gởi cha
má vậy, dù mình có liệng nó xuống dưới nước, trước khi nước tràn vào làm tắt
nghẽn tất cả mạch điện, thì nó cũng niệm được ít ra mười tiếng “A-Di- Đà Phật”
trước khi nó chết.
Cha má ơi! Xin hãy quyết chí đi và đừng chần
chờ nữa. Cha má có biết không, muốn thành Phật mà còn hẹn thì con ma
“Vô-thường” nó thích biết dường nào! Hôm trước nói chuyện điện thoại với chị
Ba, con hay được ông Mười Tịnh bị nạn nước lụt. Tội nghiệp! Ví dụ, như trong
lúc bị dòng nước cuốn trôi, ông chỉ thốt lên mười câu Phật hiệu để cầu về
Tây-phương, con tin tưởng chắc chắn rằng ông sẽ được cứu, hoăc là thoát nạn,
hoặc là được vãng sanh. Nếu được vãng sanh thì ông Mười sẽ về báo mộng cho vợ
con hay liền là mình đã được về với Phật. Khi tìm được xác, xác thân sẽ vẫn còn
mềm mại, còn tươi như thường, dù ngâm dưới nước nhiều ngày.
Tiếc thay, một đời không tin Phật, làm gì biết đến câu A-di-đà Phật để mà niệm,
mà dù có biết Phật đi nữa, nhưng bình thời không niệm Phật, thì lúc đó hồn vía
đã thất kinh rồi, làm sao còn niệm được nữa. Cho nên phải tập niệm Phật là vậy.
Tu hành muốn thành được đạo quả, mình phải
đặt tiêu chuẩn cao thì mới khỏi uổng phí tâm sức. Tiêu chuẩn cao thì mới tinh
tấn công phu, có tinh tấn công phu mới đạt phẩm vị cao được. Hòa-Thượng
Tịnh-Không dạy, phải cầu cho được thượng phẩm mà tu, nếu lỡ có rớt cũng còn
được trung phẩm, tệ quá thì cũng đạt hạ phẩm là giá chót, nghĩa là cũng còn
được về tới Tây-phương. Nếu tu tà tà cầu hạ phẩm lỡ rớt đài thì còn gì nữa mà
nói! Cha má tuổi đã lớn rồi, tranh thủ thời gian mà niệm Phật. Niệm càng nhiều
càng tốt. Nếu sức khỏe yếu thì con đề nghị cứ niệm nhẹ nhàng, niệm theo hơi
thở. Thở bình thường, hít vào rồi theo hơi thở ra niệm một câu “Nam-mô A-di-đà
Phật”. Sau vài ba tháng quen rồi, thì niệm nhanh dần. Niệm bốn chữ cho nhanh,
thở vào: “A-di-đà Phật”, thở ra: “A-di-đà Phật”. Hễ còn thở còn niệm. Khi công
phu thành khối thì chắc chắn thành tựu viên mãn. Bà bảy Tịnh Bửu mới niệm Phật
hơn một năm thôi mà bà đã niệm được rất nhanh và đã thành khối.
Một điều phải nhớ là: Niệm Phật để cầu vãng
sanh, đừng vì cái lợi nhỏ mà dùng câu Phật hiệu để luyện khí, luyện thần, như
đạo Tiên mà sau này khó trốn khỏi tai họa. Nên lập thệ nguyện vãng sanh hằng
ngày. TUYỆT ĐỐI KHÔNG nguyện sinh lại làm người dù là Tiên, là Hiền, là phú
quý... Hồi hướng tất cả công đức tu hành về Tây-phương. Nên hồi hướng sau mỗi
lần tu hành, hoặc sau khi làm một điều thiện lành. Nguyện vãng sanh và hồi
hướng phải thật thành tâm, thành ý. Một thời gian ngắn thôi, cha má sẽ thấy
được sự cảm ứng rõ rệt!
Thôi con ngừng để cha má niệm Phật. Bồ-tát
Đại-Thế-Chí nói, “Ức Phật niệm Phật, hiện tiền đương lai tất định kiến Phật”.
Xin cha má hãy một lòng tin chắc như vậy.
A-di-đà Phật
Con kính thư.
(Viết xong, Úc châu, ngày 19/4/2001).