Kính thăm Bác,
Hôm trước cháu có nhận được thư cháu Tuyết
cho biết bác đang bị bệnh. Từ xa xôi cháu không biết gì hơn thành tâm cầu Phật
gia trì cho bác. Nghe cháu Tuyết nói rằng bác đã phát tâm niệm Phật, cháu mừng
lắm. Nếu vững lòng tin, chí thành niệm Phật, nguyện cầu sanh về Tây-phương thì
bác dễ được sự cảm ứng đạo giao, hoặc là sớm bình phục, hoặc có mãn báo thân
này thì bác được hoàn thành viên mãn giải thoát. Phật pháp lý đạo cao siêu,
thậm thâm vi diệu, không thể nào chỉ trong một lá thư tầm thường mà cháu có thể
giải thích cho trọn. Hãy lấy niềm tin để đi về đất Phật bác ạ.
Cuộc đời có khác gì một giấc mộng đâu bác!
Ai hiểu đạo thì tìm cách thoát cảnh mộng để trở về với cảnh giác. Người mê muội
thì vừa thoát cơn mộng này thì chìm vào cơn mộng khác, triền miên trong mộng
khó có ngày thoát thân. Đêm đêm ta nằm trong tiểu mộng, thì cuộc đời này từ lúc
sinh ra đến lúc buông tay cũng chỉ là một đại mộng! Khi một người về đến Tây
Phương Cực-lạc rồi, họ quay nhìn xuống thì bảy tám mươi năm của con người trên
thế gian này cũng chỉ là tiểu mộng mà thôi, vì đối với thời gian vô cùng vô tận
ở cõi Tây-phương thì đây chỉ là một giấc ngủ trưa của họ. Cháu thành tâm cầu
nguyện cho bác được thoát nạn trong đời.
Thưa bác, với người tuổi trẻ thì khó khuyên giải họ tu hành, nhưng ở đây cháu
mạnh dạn khuyên bác hãy quyết tâm tìm đường giải thoát, vì không giải thoát thì
không còn đường nào tốt hơn để đi. Giải thoát bằng cách nào? Bằng đường niệm
Phật. Với hiện tình của bác không thể chơi vơi vô định hướng được, mà phải xác
định rõ hướng đi mới hưởng phần lợi ích thật sự. Sự lợi ích thiết thực nhất đối
với bác không phải là cầu mong sống thêm vài năm nữa để chịu khổ sở, mà là tìm
đường về tới thế giới Cực-lạc, được vậy bác mới được vĩnh viễn xa lìa sanh tử
khổ nạn. Hãy quyết tâm vãng sanh về Tây-phương bác ạ, nếu không về được đó thì
mình phải lạc vào những con đường khác, luân hồi sanh tử khổ đau vô tận!
Về được Tây-phương bằng cách nào? Bằng cách
“Đới nghiệp vãng sanh”. Thế nào là đới nghiệp vãng sanh? Hôm nay cháu xin nói
rõ sự việc này cho niềm tin của bác vững chắc, không lay chuyển, để chắc chắn
hưởng được đại lợi. Nhiều người cứ tưởng rằng, làm gì có chuyện chỉ tu một đời
mà vượt được lục đạo luân hồi, thoát qua tam giới, viên thành Phật đạo? Họ nói
nhiều vị tu hành nhiều đời, nhiều kiếp mà chưa chắc đã đắc đạo, làm sao một
người bình thường như ta, còn đầy nghiệp chướng mà hòng thoát nạn? Thực ra câu
nói này đúng, nhưng không phải lúc nào cũng đúng đâu. Đúng khi ta tự chọn con
đường tự lực, tự tu, tự chứng, chứ không đúng lắm với người niệm Phật cầu sanh
Tịnh-độ, vì niệm Phật thì được hưởng cái ân huệ: “Đới nghiệp vãng sanh”. Vấn đề
này vượt ra ngoài sự lý luận bình thường. Cũng như nói rằng, có làm mới có
tiền, không làm làm sao có tiền? Nói chung thì đúng, nhưng có những trường hợp
đặc biệt không theo lệ đó, ví dụ như người may mắn trúng số độc đắc thì sao?
Người niệm Phật vãng sanh Tây-phương Cực-lạc để chứng được bậc bất thối Bồ-tát
cũng giống như người bỗng dưng may mắn trở thành tỉ phú bởi trúng số vậy. Thật
là may mắn!
Đới nghiệp vãng sanh là người còn nghiệp
chướng nhưng vẫn được vãng sanh để một đời thành Phật. (Cũng xin nhắc lại, “Một
đời thành Phật” không phải là vừa mới ra đi là thành Phật liền, nhưng vừa mới thoát
ly cõi trần này là về ngay được đến cõi Tây-phương, nghĩa là vượt qua được tam
giới lục đạo. Cảnh giới ở Tây-phương toàn là Bồ-tát, cao hay thấp tùy theo công
phu tu tập, nhưng nhất định không còn lọt lại vào ba đường ác, tất cả những
thần thông diệu dụng của tự tánh đều được hồi phục. Sống trong cảnh giới an vui
“Cực-lạc” đó và tu hành cho đến ngày thành Phật. Vì ở đó thọ mạng dài vô cùng
vô tận không còn chết nữa, cho nên mới nói chỉ có một đời thành Phật là vậy).
Đới nghiệp vãng sanh là pháp tu chính yếu
của pháp môn Tịnh-độ. Trong 84 ngàn pháp tu của Phật để lại chỉ có niệm Phật
mới được đới nghiệp vãng sanh, còn tất cả pháp môn khác đều thuộc về tự lực tu
chứng lấy. Đây là sự việc rất đặc biệt trong Phật đạo. Nếu tu hành mà không chú
ý, không nghiên cứu kỹ kinh Phật, cứ lấy ý nghĩ thường tình cho rằng pháp nào
cũng tu, Phật nào cũng niệm, đây không phải là điều cấm kỵ trong việc tu hành,
nhưng coi chừng bị mất phần vãng sanh. Tu như vậy gọi là tạp tu, không chuyên
hướng, rất khó nhứt tâm, dễ bị mông lung, dễ lạc vào đường hiểm. Nếu nghiên cứu
kinh Phật thật kỹ thì danh hiệu A-di-đà Phật đã bao gồm mười phương chư Phật
trong đó rồi. Một điểm nữa, Xen tạp: là điều tối kỵ nhất của pháp Niệm Phật cầu
sanh Tịnh-độ. Cho nên, hễ còn xen tạp thì khó vãng sanh. Muốn được vãng sanh
thì không được xen tạp. Chính vì điểm này, nhiều vị cao tăng đến cuối đời ngộ
được lý đạo, thấy được “sanh-tử” là việc lớn, đều quay về với câu Phật hiệu.
Quý Ngài quyết định đóng cửa buông xả tất cả, chỉ còn nhất tâm niệm một câu “Nam-mô
A-di-đà Phật” để vãng sanh.
Cháu xin nhắc lại, nếu bác muốn chỉ trong
thời gian ngắn ngủi còn lại này được giải thoát, thì chỉ niệm câu A-di-đà Phật.
Nếu còn vọng cầu nhiều nơi thì dù tu hành có giỏi cho mấy, theo đúng chánh đạo
đi nữa, bác cũng sẽ rơi vào trong thế tự lực tu chứng, nghĩa là tự mình đi lấy,
bỏ rơi mất phần gia trì của đức Phật A-di-đà và mất luôn phần hộ niệm của chư
Phật mười phương. Trong kinh Phật nói rõ như vậy chứ không phải lời của cháu
đâu. Điều này tự Bác quyết định lấy, tự hiểu lấy về công phu tu hành của chính
mình liệu có đủ sức tự thoát ly sanh tử luân hồi được chăng? Đó là nói sự may
mắn theo chánh đạo của Phật còn vậy, nếu lỡ rơi vào ngoại đạo thì sẽ như thế
nào nữa?!...
Đới nghiệp vãng sanh là gói nghiệp lại để
vãng sanh. Nghiệp chướng là gì? Nghiệp là sự nghiệp; chướng là chướng ngại.
Nghiệp chướng là sự chướng ngại cản trở con đường giải thoát gây ra bởi cái sự
nghiệp mình đã tạo từ vô thỉ đến nay. Mình làm chuyện gì gọi là sự. Làm xong sẽ
có kết quả, đó là nghiệp. Ví dụ gieo lúa là sự; có lúa để ăn là nghiệp. Mình
chửi người là sự; mình sẽ bị người đó ghét, là nghiệp. Sự là nhân, nghiệp là
quả. Nhân tốt quả tốt, nhân xấu quả xấu. Khi bị có nghiệp rồi thì nghiệp lại
trở thành cái nhân để tạo cái quả khác. Ví dụ, người ta ghét mình là Nhân, rồi
người ta đánh mình là Quả. Nhân-Quả, Quả-Nhân, Nhân-Quả... cứ thế chồng chất
lên nhau. Đó là định luật Nhân-Quả vậy.
Nghiệp báo trên đời có thể là nghiệp hữu lậu
như nợ tiền bạc, nợ nhơn nghĩa, nợ danh vọng; cũng có thể là nghiệp vô lậu như
giết hại chúng sanh, ý nghiệp vi tế, tham, sân, si, v.v... trong đó sát sanh là
nghiệp chướng nặng nhất, tạo thành mối oán thù truyền kiếp gọi là oan gia trái
chủ, không dễ gì nó tha thứ cho mình đâu.
Từ vô lượng kiếp đến nay mình đã tạo ra rất
nhiều nghiệp, thiện có, ác có, vô ký (không thiện không ác) có. Trong đó thiện
thì ít mà ác thì nhiều. Chính vì thế mà mình khó thoát khỏi lục đạo sinh tử khổ
đau.
Còn nghiệp phải trả nghiệp! Tu hành là đoạn
nghiệp. Phật dạy, “Chư ác mạc tác, chúng thiện
phụng hành”, không làm điều ác, làm tất cả việc lành, để có nghiệp tốt và có
công đức trả nợ nghiệp. Đây là điều căn bản nhất mà mọi nơi đều phải tuyên
dương. Thế nhưng chỉ có thế thôi không đủ. Vì thực tế nói thiện thì dễ mà làm
thiện thì khó, bên cạnh làm ác thì dễ mà nói ác cũng dễ, cho nên nghiệp ác
trong đời nhiều hơn nghiệp thiện rất nhiều. Thiện ác đặt trên tiêu chuẩn 10
điều. Một người phải làm ít nhất được tới 70% thập-thiện-nghiệp mới mong được
tái sanh làm người trở lại. Nhìn chung trong thế gian, người làm được cở 30%
tiêu chuẩn thập thiện thôi đã thấy khó rồi đừng nói chi tới 70%. Nhìn đó mới
thấy ác nghiệp càng ngày càng lớn, ác chướng đời này lớn hơn đời trước. Trả
nghiệp một đời chưa xong làm sao mong trả cho hết nghiệp của vô lượng kiếp.
Chính vì thế mà con người cứ mãi trầm luân trong biển khổ không thể thoát nạn
và càng về sau càng khổ hơn. Cho nên, làm lành lánh dữ chỉ là bước căn bản đầu
tiên phải làm, thuộc về phước báu hữu lậu thế gian, chứ chưa đủ để vượt thoát
sanh tử. Đây là một vấn đề lớn khác khá quan trọng có dịp cháu sẽ trở lại, hôm
nay xin bác hãy chú ý thẳng đến điểm chính để hiểu tại sao bác có thể được vãng
sanh trước đã. Hiểu được vấn đề trọng đại vãng sanh, tự nhiên sẽ rõ điều thiện
điều ác thôi.
Có người hỏi, vậy thì những người cả đời làm
ác rồi chờ lúc gần chết niệm Phật cầu sanh Tây-phương là được Phật cứu liền, dễ
dàng như vậy sao? Cách đây mấy tháng chị Hai cũng có hỏi đến chuyện này, cháu
đã trả lời sơ qua rồi. Hôm nay cháu nói rõ thêm, mong Phật lực gia hộ cho bác
hồi phục trí lực và tỉnh táo để thể nhận lý đạo cao siêu hầu vững tâm lập chí
giải thoát. Phật A-di-đà có thể cứu độ tất cả chúng sanh dù đã bị những tội ác
lớn. Như trong kinh nói trên từ Đẳng Giác Bồ-tát, dưới cho đến hàng tội ác
trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều được nhất thời bình đẳng thành Phật.
Chúng sanh dưới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều là những người mang tội lớn,
vẫn được cứu độ nếu họ hồi tâm quay đầu niệm A-di-đà Phật. Nghe nói đến chuyện
này không ai dám tin, nhưng xin bác hãy tin tưởng vững chắc như vậy để được
cứu, vì đó là lời trong kinh của Phật. Trong kinh Vô Lượng Thọ (VLT) Phật nói,
dù người đã phạm tội ngũ nghịch thập ác, nếu biết hồi đầu, vẫn được cứu độ như
thường. Trong kinh Phật, trong lịch sử Phật giáo thực sự đã có trường hợp như
vậy chứ không phải chưa có, đó toàn là những người không tu hành gì cả, làm ác
rất nhiều, cuối đời ăn năn sám hối, niệm Phật vãng sanh.
Có điều nên nhớ cho rõ, tội ác này là tội của quá khư, nghĩa là từ ngày hôm qua
trở về vô lượng kiếp về trước, những tội ác xảy ra trong khoảng thời gian mình
còn mê muội chưa hiểu rõ Phật pháp, chứ không phải là tội cố tình làm ra sau
khi đã được người chỉ bày đường chánh nẻo tà. Trong kinh VLT phần Hạ Bối Vãng
sanh, Phật dạy: “Giả sử như những người ít làm công đức, nhưng nay phát Tâm Vô
Thượng Bồ-đề, một hướng chuyên tâm niệm A-di-đà Phật, vui vẻ tin tưởng, không
có nghi ngờ. Lấy tâm chí thành đó nguyện sanh về thế giới kia. Người đó khi lâm
chung sẽ mộng thấy được Phật và cũng được vãng sanh”. “Phát tâm Bồ-đề” có nhiều
tiêu chuẩn, trong đó chư Tổ-sư dạy rằng, “người nào phát nguyện vãng sanh về
Tây-phương Cực-lạc là người phát Tâm Vô Thượng Bồ-đề”, nghĩa là sự phát tâm cao
thượng nhứt. Ví dụ, như bác, giả như trước kia (ví dụ thôi) có làm ác nhiều,
tội nặng như giết cha hại mẹ đi nữa, nhưng nay thành tâm hối lỗi, niệm Phật cầu
về Tịnh-độ, bác vẫn có thể được độ về Tây-phương. Ngược lại, khi đã nghe xong
thư này mà nếp ác xưa không đổi, tâm không hoàn thiện, không biết ăn năn lỗi
lầm thì chắc chắn nợ cũ phải đền, nghiệp mới phải trả, không thể trốn chạy
thoát được. Đây là cháu ví dụ một cách tệ hại mà còn được như vậy, huống chi từ
hồi giờ bác có làm chuyện gì sai trái lớn đâu mà lo sợ không được đủ phần vãng
sanh. Cứ tin tưởng vững mạnh thì bác sẽ được giải thoát.
Muốn được như vậy thì cần phải tu tinh tấn
để “Đoạn Nghiệp”. Quan trọng lắm! Người nghiệp chướng nhẹ bao giờ cũng tu hành
dễ giải thoát hơn người nghiệp nặng. Nhưng đoạn nghiệp có hai dạng, một là Diệt
Đoạn, hai là Phục Đoạn. Diệt đoạn là phải tận diệt cho đến khi nào sạch hết
nghiệp chướng, giống như nhổ cỏ phải nhổ tận gốc rễ. Phục đoạn thì ngăn chận sự
phát triển của nghiệp chướng, phủ phục nó lại, như lấy đá đè cỏ cho nó không
ngóc cổ lên, không cần nhổ tận gốc rễ. Diệt đoạn cần thiết cho người thực hành
theo những pháp môn tự lực, vì chính họ phải tự thực hiện tất cả để chứng đắc.
Còn nghiệp chướng thì họ không thể vượt thoát khổ nạn. Còn người niệm Phật cầu
sanh Tây-phương Cực-lạc thì khác, chỉ cần phủ phục phiền não, nghiệp chướng là
được. Phủ phục bằng cách nào? Bằng cách niệm A-di-đà Phật. Nghĩa là bất cứ một
hình tướng nào hiện ra đều lấy câu Phật hiệu dập tắt nó. Tất cả những phiền não
như lo lắng, giận hờn, buồn sầu, oan ức, thị phi... đều trả lời bằng cách niệm
A-di-đà Phật.
Như vậy niệm Phật chính là chuyển tất cả
nghiệp chướng thành công đức, gọi là “Chuyển nghiệp”. Chuyển xấu thành tốt,
chuyển khổ thành vui, chuyển hư thành thật, v.v... Cao hơn nữa “chuyển phiền
não thành Bồ-đề”, chuyển tham sân si thành giới định huệ. Niệm Phật là chuyển
đổi tất cả nghiệp Ta-bà khổ hải thành An Dưỡng Cực-lạc, và sau cùng là “Chuyển
Phàm thành Thánh”. Một pháp tu hành đơn giản mà siêu việt. Ngài Phổ Hiền Bồ-tát
dạy: “Danh hiệu Phật chứa đựng vô lượng vô biên công đức của hết thảy Phật
Pháp, hiển thị vô lượng vô biên uy lực, giải ngộ vô lượng tri kiến giải thoát,
siêu việt mọi tư duy ngôn tư…” (Kinh Niệm Phật Ba La Mật, phẩm 4). Nhờ sức
chuyển lực mà đoạn nghiệp nhanh, và phần còn lại thì “Đới Nghiệp Vãng Sanh”.
Cho nên người đã có cơ duyên niệm Phật thì may mắn giống như người thế gian
trúng số độc đắc vậy.
Pháp môn Tịnh-độ lấy đới nghiệp vãng sanh
làm chính, cho nên dễ dàng, thích hợp với mọi căn cơ, và sự thành tựu thắng
vượt hơn những pháp tu tập khác. Chính vì thế mà Chư Phật, Bồ-tát, đều khuyên
chúng ta nên niệm Phật để hưởng được lực gia trì, chóng thành đạo quả, nhất là
thời mạt pháp này.
Tu hành đến cuối cùng là đoạn diệt nghiệp
chướng. Bây giờ nói đến thực tế, như bác đang bệnh làm sao mà đoạn nghiệp? Thưa
bác được chứ, đó là Sám hối nghiệp chướng. Bác được cứu cánh giải thoát là nhờ
diện này đây. Cuộc đời của bác chắc chắn có nghiệp chướng, tất cả nghiệp chướng
đang dồn nổ lực công phá bác trong những ngày cuối của báo thân này. Trong
những ngày này bác bị bệnh nằm liệt trên giường, không thể làm công đức gì để trả
nghiệp được, thì chính cái tâm chân thành ăn năn điều sai, chí thiết hối tội,
thành thật hổ thẹn lỗi lầm... sẽ là pháp giải nghiệp cho bác. Nếu nhớ được cụ
thể thì thành tâm sám hối lỗi đó, nếu không nhớ thì cứ sám hối chung. Thành tâm
đọc câu này:
Con xưa đã tạo bao ác
nghiệp,
Đều do vô thủy tham
sân si,
Bởi thân miệng ý phát
sinh ra,
Hết thảy con nay
nguyện sám hối.
Bên cạnh đó phải nhứt tâm, một lòng niệm
Phật, 1) hồi hướng chung về khắp pháp giới và, 2) hồi hướng cho oan gia trái
chủ để trả oán nợ tiền khiên, giảm sự trở ngại vãng sanh. Nên nhớ khi thành tâm
sám hối nghiệp chướng, chí tâm niệm thì một câu Phật hiệu có thể giải trừ được
80 ức kiếp nghiệp chướng trọng tội. Đây là lời Kinh luận nói. Bác hãy vững lòng
tin tưởng điều này đừng nên nghi ngờ mà chịu thiệt thòi oan uổng. Cụ thể, mỗi
buổi chiều sau khi niệm phật, hoặc làm điều lành gì bác (hoặc với g/đình) nên
hồi hướng như vầy”:
Nguyện đem công đức
này,
Trang nghiêm Phật
Tịnh-độ
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ ba
đường,
Nếu có kẻ thấy nghe,
Đều phát lòng Bồ-đề
Hết một báo thân này
Đồng sanh Cực-lạc
Quốc.
Đây là lời hồi hướng chung, nó bao gồm đầy
đủ ba loại hồi hướng là: hồi hướng Bồ-đề, hồi hướng chúng sanh và hồi hướng
thực tế để cho ta được vãng sanh thoát ly tam giới. Tuy nhiên, để cho phần hồi
hướng mạnh thêm, ta có thể đọc lại lời nguyện y như vậy nhưng đổi câu “trang
nghiêm Phật Tịnh-độ” bằng câu “hồi hướng cho tất cả oan gia trái chủ”, để đặc
biệt hồi hướng cho những chúng sanh bị ta giết hại, não loạn. Có thể đọc nhiều
lần trong ngày sau khi niệm Phật. (Bốn ơn nặng là: ơn cha mẹ; ơn chúng sanh; ơn
Tổ Quốc; ơn Tam Bảo. Ba đường khổ là: điạ ngục, ngạ quỷ, súc sanh). Cứ như vậy
bác đi thì bác được Phật cứu độ theo diện: “Sám hối nghiệp chướng, đới nghiệp
vãng sanh”.
Cách tu đã có, đường về Tây-phương đã rõ
ràng minh bạch, nếu Bác tin tưởng quyết lòng đi thì đắc. Còn nếu cứ chạy lòng
vòng, cầu vái lung tung, thì cháu dám xin nói thẳng rằng, không có phép mầu nào
khác có thể cứu Bác được siêu thoát đâu.
Một điều quan trọng khác, trong những thời
gian này con cái trong gia đình nên niệm Phật hộ niệm, ăn chay làm lành, nếu
phóng sanh được để hồi hướng công đức cho Bác thì tốt lắm, như ra chợ mua cá,
ốc, sò… đem ra sông hồ thả. Còn không thì cũng phải tuyệt đừng giết hại sanh
vật như heo, gà, v.v... để ăn hay cúng tế. Nếu phạm tới, nghiệp sát sanh tạo
thêm oan gia trái chủ, đang sám hối mà sát sanh thì đó là sám hối giả mạo, làm
cho oán trước thù sau tăng phần hung hãn khốc liệt.
Tóm lại đây là pháp môn tu tập tối thượng để
được cứu độ về Tây-phương Cực-lạc, nhưng nhiều người chưa hiểu tới. Đây là một
pháp môn rất vi diệu nhưng lý giải không được, cho nên bình thường con người
không dễ dàng chấp nhận! Chính cái tâm nghi ngờ là mấu chốt làm cho họ mất phần
giải thoát. Nhưng xin bác nhớ rằng, đây là sự thật, là nguyện độ sanh của đức
Phật A-di-đà, Ngài thề rằng người niệm được như vậy mà Ngài không tiếp dẫn về
tới Tây-phương Ngài không thành Phật, (nguyện 18), đã có nhiều chứng minh rõ
ràng. Ấy thế mà đến nay còn hằng hà sa số người không tin, chê không chịu tu
theo, không thèm niệm Phật. Pháp môn này tất cả mọi người phải dùng lòng tin
tưởng vững chắc để vào, để thành tựu. Cho nên không có TÍN TÂM nhất định bị sa
thải. Cái chữ TÍN này đã trở thành chướng ngại lớn lao. Vấn đề này chỉ nhờ vào
thiện căn phước đức cá nhân mà thôi. Người thiếu thiện căn phước đức mà thông
minh biết quay đầu tin tưởng để niệm Phật thì họ vẫn được giải thoát như
thường, vì công đức của câu Phật là bất khả tư nghị. Cho nên không niệm Phật
không thể giải thoát được.
Thôi thư đã dài, với tất cả tấm lòng chân
thành, cháu cầu cho bác giác ngộ đạo pháp, thức tỉnh được con đường thành đạo
trong đời. Cầu chư Phật gia trì cho bác, cầu Phật A-di-đà phóng quang cứu độ.
“Lục tự Di Đà vô biệt niệm, bất lao đàn chỉ đáo Tây-phương”. Hãy “Nhứt tâm niệm
sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật, không cần khổ công cũng đi tới Tây-phương”, mong
bác giữ vững đường tu.
Cháu kính thư.
(Viết xong, Úc châu ngày 22/1/2002)