Trợ-Niệm chính là giúp cho họ khơi dậy câu
Phật hiệu. Người Phật tử, bất luận trong lúc bình thường tụng bao nhiêu kinh,
niệm bao nhiêu câu chú, khi lâm chung muốn chủng tử Phật xuất hiện, thì duy
nhất chỉ có bốn chữ “A-di-đà Phật” mới hữu dụng.(Ngài Lý-Bỉnh-Nam).
Kính cha má,
Hôm trước con mới nhận được thư cháu Tuyết
con chị hai, cháu nói bà nội cháu yếu rất nặng khó có thể qua khỏi. Bác trong
thời gian chờ ngày ra đi đã nghe lời khuyên phát tâm ngày đêm niệm Phật. Nghe
như vậy con mừng lắm vì đây là cơ may hiếm có của bác, do thiện căn phúc đức
lớn nên cuối đời có người đến chỉ con “ Đường-Về Cực-lạc”. Nếu bác đã tin tưởng
đã phát tâm dũng mãnh, biết buông xả tất cả để niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ thì
cơ hội để cho bác hưởng một đại phúc báu vô cùng vô tận cho một đời người, khó
có ai so sánh được. Chắc đến giờ này thì cha má đã nhận được cuộn video
“Hoa-Khai Kiến-Phật”, cuộn phim quay cuộc vãng sanh của cụ Triệu-Vinh-Phương
rồi. Xin cha má hãy coi đi coi lại thật kỹ câu chuyện đó để thấy được sự tối
linh nghiệm của pháp tu niệm Phật. Cuộn phim này là cả một bài pháp sống thực,
một bài “hiện thân thuyết pháp” cho những ai còn mập mờ trên con đường tu hành.
Xin cha má hãy trân trọng suy nghiệm.
Đến đây thì coi như con đã hoàn tất được một
đoạn đường quan trọng những gì con muốn nói với cha má. Đầu tiên khi vừa phát
hiện một sự thật quý báu là con đường vãng sanh Tây-phương Cực-lạc, con đường
giải thoát trọn vẹn mà đức Thế-Tôn đã để lại cho chúng sanh, con bắt đầu viết
thư cho cha má hay liền. Con mau mắn viết thư đến nỗi nhiều lúc làm cha bực
mình, nhưng thực ra tâm của con cũng chỉ một lòng lo lắng cho cha má, con sợ
chỉ cần chậm trễ một chút là ngàn đời ân hận. Người phát tâm niệm Phật dũng
mãnh cầu sanh về cõi Phật thì có thể thành tựu con đường giải thoát ngay trong
một đời này. Vì người đời nay thiếu quá nhiều thiện căn phúc đức cho nên không
có niềm tin vững chắc, khó phát lồ tu tập, tất cả chỉ vì nghiệp chướng đã quá
lớn, tư tưởng kiến giải đã quá nhiều, vô minh quá nặng đã che kín trí huệ,cho
nên họ khó thấy được chân lý. Vì một tâm ý quyết lòng trả hiếu trong đời, con
cố gắng tối đa, tìm đủ cách để chứng mình một sự thật quý nhất cho đời người.
Bao nhiêu hình chụp, bao nhiêu tài liệu con đều lần lượt gởi về cũng chỉ muốn
để cho cha má thấu rõ.
Đến hôm nay cha má đã coi được cuộn video
“Hoa Khai Kiến Phật”, thì con nghĩ sự hồ nghi của cha má chắc đã được giải tỏa.
Những lời con thường nói như: tu hành một đời này thôi viên thành Phật đạo, một
đời này thôi thoát ly lục đạo luân-hồi, một đời này thôi vượt qua tam giới, một
đời này thôi về tới được cõi Tây-phương Cực-lạc để thành Bồ-tát bất-thối chờ
ngày thành Phật... Những điều này đến nay chắc cha má phải chấp nhận là đúng,
vì đã tận mắt chứng kiến một bà cụ lụm cụm chín mươi tuổi mới phát khởi niệm
Phật, chín mươi bốn tuổi đã an nhiên vãng sanh về Tây-phương với Phật. Rõ ràng
trước mắt!
Thưa cha má, trước Phật tiền con đã phát
nguyện quyết tâm cứu độ cha má, con nguyện còn một cơ hội con còn cứu, còn một
hơi thở con còn tìm cách cứu cha má. Mong rằng sự thành tâm của con cảm ứng
được đến cha má. Bị hiểu lầm, bị chê trách, bị đánh giá sai, bị chửi mắng...
con không ngại, vì dù sao đi nữa con cũng chỉ có khả năng cứu cha má trong đời
này thôi, qua khỏi đời này con không còn cách nào cứu được cha má nữa. Tất cả
sự thương tâm đối với ông bà giòng họ mình con đã thấy rõ, nhưng đã lỡ rồi đành
chịu thua cuộc! Ông bà mình thua cuộc không phải ông bà mình không tu, nhưng
thua cuộc vì tu không đúng cách, tu lòng vòng để hưởng những thứ phước báu nho
nhỏ, chứ không tu theo đường giải thoát trần lao, không tu theo đường
Chánh-Giác thành Phật. Khi hiểu được con đường giải thoát rồi, con mới thấy rõ
ràng hiện nay còn rất nhiều người vẫn còn mê man trong những phép tu đọa lạc.
Thật đáng thương!
Cha má ơi! Đời này ai tu nấy đắc, chắc chắn
trên vũ trụ này không ai có thể tu thế cho ai được cả. Khổ đau hay sung sướng
tự chính mình chọn. Cực-lạc hay đọa-lạc tự chính mình tìm. Tự do hay địa ngục
do chính mình đi. Cảnh giới tương lai của mỗi người tự cá nhân mình xây dựng
lấy. Chư Phật đại từ đại bi cũng chỉ có thể tăng thiện duyên cho mình, bày vẽ
con đường cho mình đi, Phật sắp đặt sự gia trì trên con đường đó, hễ mình bước
theo con đường đó thì hưởng được sự gia trì, mình đi lạc đường tự mình phải
quay trở lại, chứ chư Phật không thể đi giùm cho mình được. Con thương cha má
con chỉ giúp được bằng lời, chứ con cũng chẳng làm được gì khác. Sự nghiệp thế
gian còn có thể cho nhượng để hưởng tạm bợ một vài năm rồi chết, chứ sự nghiệp
xuất thế gian thiên trường vĩnh cửu tự cha má phải làm lấy, con vì chữ hiếu đã
nói cạn lời cạn ý rồi, xin cha má muôn ngàn lần cẩn thận.
Con xin nhắc lại, trong thời mạt pháp này
chỉ có niệm Phật, niệm Phật A-di-đà và ngày ngày cầu xin về cảnh giới Phật thì
cha má mới thoát được khổ nạn cuộc đời. Niệm Phật mới về được cảnh giới Phật,
ngoài ra không tìm ra một pháp môn nào khác có thể thay thế được đâu. Trong
những thư trước con đã nói rõ ràng chuyện này rồi. Bà bác mẹ anh Hai Nhung
trong những ngày thoi thóp cuối cuộc đời đã phát tâm niệm Phật, nếu đúng như
cháu Tuyết nói “Ngày đêm Nội cháu niệm Phật”, thì đường về với Phật đang nằm
trong tầm tay của bác. Con đã viết thư cho cháu Tuyết và khuyên cháu cố gắng
giúp Nội của cháu, có lẽ con sẽ viết thêm thư để khuyên anh Hai hỗ trợ hoặc nói
thẳng với bác để củng cố niềm tin, may ra con cứu được một người.
Sau khi đã tận mắt coi được người vãng sanh về Tây-phương với Phật thì con nghĩ
bao nhiêu câu hỏi gì liên quan đến “có” hay “không có” vãng sanh đã được giải
tỏa. Cha má cũng nên phát tâm giúp bà con cô bác trong làng tu hành. Đây là một
công đức rất lớn để làm tư lương lót đường cho ngày vãng sanh của cha má. Hôm
trước, chị Hai cũng có ý nguyện đi khuyên bà con niệm Phật, con rất mừng. Một
khi thiện căn đã phát thì phước báu cũng phát sinh ra, hướng dẫn cho nhiều
người tu tập thuộc về công đức vô lậu, đây là công đức bố thí pháp quý nhất
trong các loại bố thí.
Tại sao niệm Phật được thành Phật? Thực ra
pháp Phật để lại cho chúng sanh vô lượng, vô biên, pháp nào cũng vi diệu cả.
Chính vì thế mà có rất nhiều người cứ lý luận rằng tu cách nào cũng là tu, pháp
nào cũng pháp Phật. Nói vậy coi chừng bị hớ mà không hay! Trong lời khai thị
của Hòa-Thượng Tịnh-Không, Ngài nói rằng: “có người cho rằng đạo nào cũng là
đạo, miễn làm lành lánh dữ là được, miễn có chỗ gởi gấm tinh thần là tốt rồi.
Đây là một sai lầm rất lớn, không những làm hại mình mà còn hại đến người khác,
vì người không học Phật thì vĩnh viễn không có cơ hội giải thoát. Ta nên nhớ,
ngoài những pháp hữu lậu thế gian, vẫn còn có pháp xuất thế gian, có thể siêu
phàm nhập Thánh, một đời thoát ly sinh tử chứng đại Bồ-đề, viên mãn Phật đạo”.
Có thể nói rằng đạo nào cũng tốt thì có thể
đúng vì hầu hết đạo giáo nào cũng khuyên làm lành lánh dữ, chứ còn nói đạo nào
cũng giải thoát thì không thể đúng được. Cũng như nói, có học thì tốt là đúng,
nhưng không thể nói có học là được cấp bằng tiến sĩ, thành bác sĩ được. Học
tiểu học sẽ được cấp tiểu học, học đại học sẽ có bằng cử nhân, học tiến sĩ mới
có bằng tiến sĩ. Tu đạo cũng vậy, Phật giáo có vô lượng vô biên pháp môn, nhưng
tu pháp Nhân-Thừa thì nhiều lắm cũng chỉ được làm người trở lại; tu Thiên-Thừa
thì nhiều lắm cũng sanh lên một cõi Trời; tu Tiên thì làm được ông Tiên sống
dai hơn thiên hạ một chút. Tất cả phép tu đó, theo Phật nói, cũng chỉ hưởng
được chút phước hữu lậu nào đó để chờ ngày đoạ lạc mà thôi. Muốn thành Phật
phải tu pháp môn thành Phật.
Pháp môn nào thành Phật? Là Đại Thừa Phật
pháp. Niệm Phật là pháp tối thượng cực tôn trong đại thừa Pháp. Người học tiến
sĩ thì dù có dở cho mấy thì họ cũng được bằng cử-nhân, người học tiểu học thì
dù có giỏi tuyệt luân đi nữa cũng chỉ có bằng cấp lớp năm là cùng. Người tu
pháp thành Phật thì cơ hội thành Phật có trong đời, dù có dở cũng sẽ thành được
Bồ-tát. Người tu chỉ nguyện sanh trở lại làm người thì tột bực cũng chỉ được
đời sau trở lại làm người, sống thêm vài chục năm trên thế gian rồi chờ ngày
chết. Người là cảnh giới thấp nhứt trong tam thiện đạo (Thiên, A-Tu-La, Nhân).
Như vậy, lỡ tu hành không được tinh tấn, không đủ tiêu chuẩn để được làm người
thì đi đâu? Chắc chắn là phải rớt xuống tam ác đạo, nghĩa là không vào địa-ngục
thì làm súc-sanh, không súc-sanh thì chắc chắn thành ngạ-quỷ, ba đường đó khó
thể nào trốn thoát. Cả đời tu hành thật khổ cực sau cùng lại hưởng những thứ
hung hiểm tàn tệ mà mình không hay! Như vậy, làm sao tương đương cho được, thì
làm sao ta có thể bừa bãi được?
Thưa cha má, hôm nay con muốn nói đến việc tại sao niệm Phật được Thành Phật?
Tại sao pháp niệm Phật lại tối cực chí tôn như vậy? Đã tối thượng viên mãn như
vậy tại sao đức Phật Thích-ca Mâu-ni để lại Pháp môn này gần ba ngàn năm nay
rồi lại ít người thể hội đến, ít người tu tập? Con sẽ dựa theo kinh điển, dựa
theo lời giảng của Hòa-Thượng Tịnh-Không, của chư Tổ sư để giải thích, chứ
không phải tự ý con nghĩ ra và cũng để kết thúc lời thư củng cố niềm tin vững
mạnh cho những ai muốn tu học Phật.
Thứ nhứt, căn bản nhứt mình cần phải biết
rằng sở dĩ mình được thành Phật là vì chính mỗi một người chúng ta đều có chủng
tử Phật. Nói đơn giản hơn, chính cha, chính má, chính con, tất cả ai ai cũng có
tâm Phật cả. Như cha thường nói với con rằng “Phật tức Tâm, Tâm tức Phật”. Nghĩa
là, chính mình là một vị Phật trên đời mà mình không hay không biết. Chính vì
thế, mà bất cứ lúc nào một người bình thường như chúng ta đều có thể thành Phật
nếu biết hồi đầu.
Ví dụ cho dễ hiểu, nếu con là con của cha
má, thì dù con có lưu lạc đến chân trời góc biển nào, con có bất hiếu, hoang
đàng, ngỗ nghịch mà từ chối dòng giống thì con cũng không thể cải đổi giòng máu
của con. Nghĩa là trong đời này con vẫn là con của cha má, trong bất cứ lúc nào
hễ chỉ cần con quay trở về là ngay lập tức con nhận ra cha má liền. Ngược lại,
nếu con không phải là con của cha má, thì dù con có muốn mấy đi nữa, giả dạng
đủ cách cũng không thể được. Với khoa học ngày nay chỉ cần lượm được một sợi
tóc thôi họ cũng có thể truy tầm ra nòi giống, thì làm sao giả dối được. Tương
tự, chính vì chân tâm của chúng ta là Phật cho nên ta mới có thể thành Phật.
Thành Phật là thành chính cái tâm Phật của
mình chứ không có gì khác. Trong kinh Bát-Nhã Phật dạy, “Vô-Trí diệc Vô-Đắc”,
“Vô-Trí” là Căn-bản-trí, chính là chân tâm của chính ta. “Vô-Đắc” là Vô-sở-đắc,
là đắc được chính những cái gì chúng ta đã sẵn có. Một chúng sanh vãng sanh về
Tây-phương Cực-lạc thì tất cả những năng lực của chính mình được khôi phục, vì
thế cho nên ta thành Phật. Chân tâm ta là Phật, nhưng ta không thành Phật được
chỉ vì ta lăn lộn nhiều đời nhiều kiếp trong vô minh, cái tâm Phật của ta bị
đóng kín trong cái khung vô cùng kiên cố của trùng trùng phiền não nghiệp
chướng, thành ra ta bị mê muội không nhận được cái đúng cái sai. Tất cả những
cách sống cách nghĩ thường tình của con người trên thế gian này đều do cái vọng
tâm sai khiến hết.
Hễ mê thì thích mê muội và ghét chân chánh,
như kẻ có tâm trộm đạo thì thích kết bè với người trộm đạo và rất ghét người
hiền-nhân quân-tử vậy. Sống trong cảnh giới mê muội hàng vô lượng kiếp rồi, cho
nên chúng ta sinh ra là mặc nhiên chấp nhận sự mê-muội và cho đó là chân-lý,
không chịu hồi tâm phản tỉnh, chứ biết hồi tâm trở lại thì cơ hội giác ngộ chỉ
là một sớm một chiều thôi chứ có gì đâu.
Thứ hai, pháp niệm Phật là pháp môn nhị lực
được đức Phật A-di-đà gia trì và chư Phật trên toàn cõi mười phương pháp giới
hộ niệm. Thành tâm niêm một câu Phật hiệu là ta có thể bắt được đường dây nối
liền với lực hộ trì của chư Phật trên khắp pháp giới. Chính vì thế mà sự thành
tựu không thể nói hết bằng lời.
Nối liền huệ mạng với Phật bằng cách nào?
Bằng cách TÍN-HẠNH-NGUYỆN đầy đủ. Tin Phật, nguyện sanh về cõi Tây-phương với
Phật và niệm Phật tương tục không gián đoạn, chỉ thế thôi là nối được huệ mạng
với Phật. Cha má xét thử có đúng hay không, bà Cụ Triệu-Vinh-Phương bắt đầu tu
lúc nào? Năm 1994, lúc Cụ gần chín mươi tuổi mới bắt đầu tu. Khi nào vãng sanh?
Năm 1999, lúc cụ chín mươi bốn tuổi. Cụ biết trước ngày giờ ra đi. Cụ tỉnh táo
đến giây phút cuối cùng. Trước giờ từ giã, Phật A-di-đà hiên thân quang minh
sáng lòa, hương thơm ngào ngạt. Tất cả những hiện tượng này nếu ai có đọc qua
kinh Vô-Lượng-Thọ đều thấy rằng Phật đã nói rõ ràng cách đây gần ba ngàn năm
rồi. Nhìn hiện tượng vãng sanh, lấy kinh Phật ấn chứng, mình còn biết được Cụ đã
vãng sanh lên phẩm vị nào trong chín phẩm hoa Sen nữa là khác.
Thưa cha má, bà Cụ khởi đầu tu hành đã quá trễ, trễ hơn cha má bây giờ. Giả sử
lúc đó Cụ không có lòng TIN vững chắc, cứ nói bây giờ mình già rồi, trễ rồi,
sắp chết rồi... làm sao tu kịp nữa, thì đến hôm nay thân xác Cụ cũng đã tiêu
tan, nhưng khổ nhứt là không biết là mình đang nằm than khóc ở cảnh giới nào
đây? Có ai hay biết! Thế mà Cụ đã bừng lên một ý chí kiên cường dũng mãnh,
quyết tâm về với Phật, Cụ buông xả tất cả để đi, một lòng niệm A-di-đà Phật,
chỉ cần vài năm ngắn ngủi thôi Cụ đã được chính đức Phật A-di-đà hiện thân thọ
ký vào năm 1998. Một sự quyết tâm thực hiện TÍN-HẠNH-NGUYỆN đầy đủ một thời
gian ngắn thôi ở cuối cuộc đời: Cụ đã viên mãn Phật Đạo, hoàn toàn giải thoát,
nghiễm nhiên trở thành vị Bồ-tát vào năm 1999. Giả sử bây giờ Ngài có thị hiện
xuống phàm sớm thì ngày nay bất kỳ ai gặp Ngài cũng phải quỳ xuống phục lạy xin
cứu độ chứ không phải tầm thường.
Thế mà người đời chưa tin, nói đến tu hành
thì hẹn nay hẹn mai, đổ thừa bị kẹt này kẹt nọ, bị bận lo cho con cho cháu, cho
nhân, cho nghĩa, lo cho cái nhà, miếng vườn... “Dép dưới giường lên giường vội
biệt, sống ngày nay khó biết ngày mai!”. Ấy thế, tuổi đã xế chiều rồi mà còn
tham chi mấy chuyện vụn vặt, mà quên mất cảnh đọa lạc khổ đau hàng ngàn vạn năm
sau đó. Rất tiếc là con không cách nào có nhiều cuộn phim quay lại người vãng
sanh, vì người ta không cho phép quay, chứ không chắc chắn cũng có nhiều phim
khác để cho mọi người cùng thấy, để cùng nhau phát tâm niệm Phật. Trong thư
trước con có chụp lại cái thông báo và tấm hình của cụ Trần-Văn-Lâm vừa mới
vãng sanh vào ngày 30/5/2001. Con của cụ thường tu trong Niệm-Phật-Đường, về
nhà khuyên cha niệm Phật, cụ nghe lời niệm Phật, cụ vãng sanh ở tuổi quá bát
tuần. Thật là đúng như lời nguyện, “Hết một báo thân này, cùng sanh Cực-lạc
quốc”. Quyển sách “Niệm Phật vãng sanh lưu xá lợi” chẳng qua là một vài thí dụ
thôi, chứ bây giờ mà sưu tầm cho hết thì sách đâu mà chứa đây? Đó là sự thật,
không dám nói sai.
Thế thì tại sao đến ngày nay vẫn còn ít
người biết đến niệm Phật? Người ta không biết là tại vì người ta không muốn
biết, hoặc không đủ duyên để biết. Tại Niệm-Phật-Đường ở đây đang mở khóa kiết
thất niệm Phật từ 17/12 đến 30/12/01, trong đó có một vị Sư, pháp tự là
Thiện-Huệ, tu hơn hai mươi hai năm qua tại Mỹ-Tho. Ngài qua Canada thăm con gái, vô tình nghe được mấy cuộn
video pháp của Hòa-Thượng Tịnh-Không do chính con đem qua Canada trong
tháng chín vừa qua. Ngài nghe được chợt tỉnh ngộ, liền cùng với người con gái,
chị Diệu-Đức, một dược sĩ, bay qua Úc để nhập thất cùng tu và mong được bái
kiến Hòa-Thượng Tịnh-Không. Trong một đêm nghe Pháp với thầy Ngộ-Thông, Ngài
được mời lên phát biểu. Ngài thành thực nói rằng: “Hơn hai mươi hai năm tu hành
nhưng tôi chưa nhận rõ đường đi, tu thì tu nhưng không biết đâu để đi, rốt cuộc
cứ chạy lòng vòng, kinh Phật thì có đọc có tụng, nhưng chỉ hiểu đại khái lờ mờ,
chứ không rõ đường về Cực-lạc”. Ngài nói cái lỗi này một phần là do các vị thầy
của mình không chịu hướng dẫn kỹ. Ngài nói tiếp: “Nếu tôi không có cơ duyên này
thì đến chết tôi cũng chưa chắc biết được đường nào tôi đi”. Ngài Thiện-Huệ năm
nay tròn tám mươi tuổi.
Thưa cha má, đừng nghĩ rằng cha má đang được
con nhắc nhở niệm Phật, thì tưởng rằng ai cũng được nhắc nhở như vậy đâu. Cha
má thử nghĩ, ngay cả một vị Sư xuất gia tu học Phật hai mươi hai năm qua mà
không hiểu, không biết nguyện vãng sanh với câu Phật hiệu, thì làm sao đại
chúng hiểu biết đây? Trong nhiều bài pháp Hòa-Thượng Tịnh-Không nói rằng, thậm
chí có nhiều vị xuất gia tu hành rất cao tuổi hạ nhưng cuối đời vẫn không tin,
hoặc không biết câu Phật hiệu để niệm vãng sanh. Ban đầu con không dám tin, đâu
có chuyện lạ lùng như vậy! Nhưng khi con đi dò hỏi để tìm hiểu, mới giựt mình
tỉnh ngộ rằng lời nói này đúng.
Ví dụ, nhiều người tu học Phật cứ nguyện
được tái sanh làm vị cao tăng để độ người, tái sanh làm người hiền, nguyện tiêu
tai giải nạn, được giàu có, được phước báu, được an lành... Tất cả những lời
nguyện đó chỉ có lợi trong phạm vi nhỏ hẹp nào đó thôi. Còn có nhiều lời nguyện
sai lầm nữa là khác! Nguyện như vậy thì chính họ không được phần giải thoát, tự
họ dẫn dắt mình vào con đường hiểm nạn. Vì sao? Vì qua một cuộc cách ấm thì
công phu tu hành bị xóa sổ sạch trơn, đời sau nếu không có cơ duyên thì khó mà
gặp lại Phật pháp để tu tiếp. Cạm bẫy giăng giăng, ma chướng trùng trùng, càng
về sau càng kịch liệt hung hiểm, khó cho họ cái cơ hội thoát nạn!
Ngay cả những người tu chỉ nguyện thành Phật
cũng không viên mãn đường tu. Tại sao? Vì thành Phật khi nào đây? Đời sau hay
triệu đời sau? Hay tỉ đời sau? Tỉ tỉ đời sau? Vô lượng vô biên kiếp về sau?
Trong khoảng thời gian đó sẽ ra sao đây? Ai cứu mình đây? Hòa-Thượng Tịnh-Không
dạy rằng, người phát nguyện viên thành Phật đạo dù họ có thiện căn sâu dày tới
đâu cũng vẫn còn kém thua thiện căn và phước đức của người phát nguyện vãng
sanh về Tây-phương Cực-lạc. Vì sao? Người phát nguyện thành Phật mà không phát
nguyện vãng sanh Tây-phương thì có thể hàng tỉ tỉ năm sau họ còn lưu lạc đâu
đó, còn lăn lộn trong sinh-tử luân-hồi chưa chắc đã được may mắn thoát hiểm. Đó
là con đường tự tu, tự chứng từng bậc từng cấp để thành Phật, trong kinh Phật
nói phải trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp mới viên thành Phật đạo. Thời gian này
là thời gian tinh tấn tu hành chứ không phải tà tà, nếu tu tà tà thì miễn phần
giải thoát. Ví như trong hiện tại họ đã phát nguyện thành Phật, nhưng liệu họ
có tu hành tinh tấn chưa, thì làm sao dám bảo đảm đời sau sẽ tinh tấn tu hành!
Sinh ra ở quốc gia giàu có thì còn đỡ, lỡ sinh ở mấy nước nghèo hằng ngày không
tìm ra muỗng cháo để húp thì làm sao tu hành đây!?
Còn người nguyện sanh về Tây-phương Cực-lạc
thì nhờ lực gia trì của Phật A-di-đà, chỉ trong đời này thôi họ có thể được đức
Phật A-di-đà tiếp dẫn về Tây-phương, họ sẽ là Bồ-tát, không còn lo sợ tử sanh,
không còn lo bị rơi vào ba đường ác, không sợ bị thối chuyển nữa. Cứ thế họ an
nhiên tự tại, hưởng thụ sự sung sướng “Cực-lạc”, thần thông biến hoá bao trùm
pháp giới. Kinh Phật nói, mỗi ngày có thể dùng “thiên bá ức hóa-thân” đi khắp
mười phương để cúng dường chư Phật, rồi trở về phạn thực kinh hành niệm Phật.
Cho nên, trong nhiều kinh điển đức Phật Thích-ca dặn chúng sanh phải nguyện
vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc. Thế mà người ta không tin, nhiều người còn bài
bác, nhiều nơi còn chủ trương ngược lại, thì Phật làm gì được bây giờ!
Sinh về Tây-phương khó hay dễ? Chỉ cần
TÍN-HẠNH-NGUYỆN là đi, làm sao khó được. Khó hay dễ cứ hỏi bà cụ
Triệu-Vinh-Phương thử coi. Cho nên con thường nói, chính cha má đang hưởng một
đại thiện căn đại phúc báu và nhân duyên trong đời khó người có được mà cha má
không hay. Nếu bỏ mất cơ hội này, xin nói thẳng, bá thiên vạn kiếp sau này chưa
chắc cha má còn có cơ hội gặp lại được. Xin cha má muôn ngàn lần trân trọng
những lời nói của con để được thoát nạn.
Bên trên là nói chung chung, bây giờ con muốn đi thẳng vào thực tế bên cạnh
cha, cái pháp tu để trở thành hiền nhân chờ dự Hội-Long-Hoa. Con xin thưa trước
rằng đây không phải là sự kỳ thị, nhưng con cứ theo đúng kinh Phật nói thôi, vì
Hội-Long-Hoa từ kinh Phật nói ra. Di-Lặc Tôn Phật là vị Phật thứ năm thị hiện
xuống trần để cứu độ chúng sanh. Ngài là một vị Đẳng-Giác Bồ-tát ở cõi
Tây-phương Cực-lạc được bổ sứ Thành Phật. Trước khi thành Phật, Ngài tu ở nội
viện cung Trời Đâu-Suất. Vì kinh của cha đang tu tập hồi giờ đều dồn vào Hội-Long-Hoa,
cho nên con mới nói đến hội này, chứ không phải đương không con nói tới. Xin
cha má đọc kỹ để hiểu đường tu tập của mình đang đi đâu?
Trong kinh Di-Lặc-Thượng-Sinh và Kinh
Di-Lặc-Ha-Sinh, đức Phật Thích-ca Mâu-ni thụ ký rằng, Ngài Di-Lặc Bồ-tát tu
hành tại cung nội viện Đâu Suất-Thiên, thọ bốn ngàn tuổi. Một ngày trên cung
trời Đâu-Suất dài bằng bốn trăm năm ở cõi trần này, tính chung lại là khoảng
năm mươi bảy ức sáu ngàn vạn năm, tức là gần sáu trăm triệu năm nữa mới hạ sanh
xuống cõi trần gian, thị hiện thành Phật dưới cội cây Long-Thọ), và lập
Hội-Long-Hoa. Ngài sẽ thay thế đức Phật Thích-ca mở ra ba hội thuyết pháp để độ
chúng sanh. Ngoài ra còn rất nhiều kinh Phật Di-Lặc khác nói đến chuyện này.
Như vậy, Long-Hoa Hải-Hội không phải xuất hiện ở thế gian trong một vài chục
năm, một vài trăm năm, một vài triệu năm... mà năm trăm bảy mươi sáu trăm triệu
năm nữa mới xuất hiện. Hay nói gọn hơn, hơn nửa tỉ năm nữa mới xảy ra tại trần
thế này. Một đời người chúng ta trung bình bảy chục năm. Giả sử một người vừa
mới chết là đầu thai trở lại làm người liền để tu hành, thì phải mất hơn tám
triệu đời nữa mới may ra gặp Hội-Long-Hoa của Phật Di-Lặc.
Khi chủ trương hướng về Long-Hoa Hải-Hội, từ
trước đến giờ có ai thuyết minh việc này chưa? Có ai tường tận cái thời gian
tưởng chừng vô cùng vô tận này không? Thời này là thời mạt-pháp. Chư Phật sợ
chúng sanh không thoát khỏi hiểm nạn của tà ma ngoại đạo đang bủa lưới khắp
nhân gian, cho nên quý Ngài mới quyết tâm dùng pháp âm A-di-đà Phật để cứu độ
tất cả những ai phát tâm niệm Phật nguyện sanh về cõi Tây-phương để thành Phật.
Trong kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật dạy, “Chủng chư thiện căn nguyện sanh Cực-lạc,
kiến A-di-đà Phật. Giai đương vãng sanh, bỉ Như-Lai độ, các ư dị phương thứ đệ
thành Phật đồng danh Diệu-Âm Như-Lai” (Vô-Lượng-Thọ phẩm 48). (Nghĩa là, những
người có thiện căn nguyện vãng sanh về Cực-lạc, sẽ thấy được Phật A-di-đà.
Những người vãng sanh này về được nước Phật đó từ các quốc độ khác nhau, trước
sau đều được thành Phật và cùng có tên là Diệu-Âm Như-Lai). Pháp danh của con
là Diệu-Âm, của vợ con cũng là Diệu-Âm, hàng ngàn người quy y với Hòa-Thượng
Tịnh-Không đều cùng một pháp danh là Diệu-Âm. Cha má ạ, hãy chuẩn bị vị thế của
mình ngay từ bây giờ chứ cần gì chờ đợi đến ngày vãng sanh...
Trong pháp vận của đức Phật Thích-ca Mâu-ni
trải qua mười hai ngàn năm, chánh-pháp một ngàn năm, tượng-pháp một ngàn năm,
mười ngàn năm là thời kỳ mạt-pháp. Ta đã bước qua ngàn năm thứ hai của thời mạt
pháp. Trong thời kỳ này, ta đang sống càng ngày càng lún sâu vào ma nghiệp,
càng ngày càng khốc liệt, càng kinh khủng! Tất cả những giáo pháp xuất hiện
trong một ngàn năm trở lại đây thuộc về mạt-pháp, ai dám bảo đảm đó là
chánh-pháp? Gần ba ngàn năm trước đây, kinh sách của Phật để lại đã dặn rất kỹ
rằng, bắt đầu hai ngàn năm sau khi Phật nhập diệt, chúng sanh tuyệt đối phải
cẩn thận, nếu không khó tránh đường đọa lạc oan uổng. Trong thời kỳ mạt pháp
này chư Phật luôn luôn xuất hiện để cứu vớt chúng sanh, nhưng cũng có rất nhiều
hiện tượng khác xuất hiện song song. Xin cha má phải nhớ kỹ một nguyên tắc để
phân biệt là:
1) Chư Phật Bồ-tát không bao giờ sử dụng
thần thông, biến hoá, đồng bóng...
2) Không bao giờ quý Ngài để lộ chân tướng,
danh tánh, không bao giời tự xưng là Phật, Thánh, Tiên, Hiền,
3) Nếu đã lỡ bị lộ danh tánh thì tức khắc
các Ngài thị tịch liền,
4) Các Ngài xuất hiện là luôn luôn giảng
chánh pháp, làm cho chúng sanh thấu rõ kinh tạng, tu đúng pháp Phật, chứ không
khi nào các Ngài giảng pháp đối nghịch với Phật hay khai triển xa lìa chánh
pháp của Phật. Xin cha má lấy những tiêu chuẩn này để tự kiểm lấy.
Như vậy, từ đây cho đến chín ngàn năm nữa
vẫn còn là thời kỳ độ sanh của Phật Thích-ca Mâu-ni, Ngài khuyên chúng sanh
nguyện sanh về Tây-phương Cực-lạc của đức A-di-đà để viên thành Phật đạo. Trong
thời kỳ này tuyệt đối không có một vị Phật nào dám xuất hiện mà lộ danh tánh,
vì “Phật Phật đạo đồng”, “Nhứt Phật xuất thế thiên Phật hộ trì”, không thể chư
Phật lại đi làm chuyện dẫm chân lên nhau như người thế gian đâu.
Bây giờ xét tới “Tam Kỳ Phổ Độ”, chiếu đúng
theo kinh Phật nói, thì kỳ thứ nhứt xảy ra chắc chắn phải là gần sáu trăm triệu
năm nữa mới có. Đức Di-Lặc Tôn Phật sẽ lập ba hội thuyết pháp độ sanh gọi là ba
kỳ độ sanh. Ngài thuộc hàng đệ tử của Phật Thích-ca Mâu-ni, làm sao Ngài dám
lập kỳ độ sanh trong thời của sư phụ đang hành sự. Như vậy, tam kỳ độ sanh đây
chỉ cho tam kỳ mở hội thuyết pháp của đức Di-Lặc Tôn Phật ở Hội-Long-Hoa.
Thưa cha má, tu hành cần hiểu thấu lẽ đạo,
đừng nên bất cẩn mà khó về sau. Một thời gian hơn nửa tỉ năm không phải là
chuyện tầm thường. Lăn lộn khổ đau trong hơn tám triệu đời chết đi sống lại để
chỉ cầu được thành người, thật có oan uổng không? Xin nghiêm chỉnh xét lại.
Riêng con, con không dám đi con đường đó. Con đi theo con đường của cụ
Triệu-Vinh-Phương năm 1999, con đường của ông Trần-văn-Lâm vừa mới vãng sanh về
Tây-phương ngày 30/5/2001, con đường “Niệm Phật Thành Phật”. Niệm Phật là nhơn,
thành Phật là quả, con cố gắng tranh từng hơi thở để niệm Phật, để được mười
câu Phật hiệu trước phút lâm chung, thì con được vãng sanh và thành Diệu-Âm
Bồ-tát.
Ví dụ, nếu bà bác mẹ anh Hai nghe lời con,
một lòng niệm Phật, một lòng cầu vãng sanh Tây-phương, trong những ngày cuối
cuộc đời này nằm trên giường bệnh mà bác thành tâm sám hối những lỗi lầm trong
đời, quyết chí ăn năn hối lỗi, một lòng cầu Phật Di-Đà tiếp dẫn và “niệm Phật
không hoài nghi, không xen tạp và niệm liên tục không gián đoạn”, thì bác cũng
sẽ thành Diệu-Âm Bồ-tát trong một đời này. Trong khi nếu tu theo con đường Nhân
Hiền để chờ dự Hội-Long-Hoa thì hàng trăm triệu năm sau, khi người ta đã thành
Phật từ hồi nào rồi, mà mình thì vẫn còn lang thang ở một xứ sở nào đó, không
biết có còn được làm người hay không, có được phước phần để nghe pháp âm của
đức Di-Lặc lập kỳ phổ độ không! Xin cha má suy nghĩ kỹ.
Đức Di-Lặc sẽ thuyết gì? Đức Di-Lặc Tôn Phật
sẽ thuyết pháp môn Niệm Phật cầu sanh Cực-lạc, vì pháp môn này mười phương ba
đời chư Phật đều phải thuyết.
Thưa cha má, con nghe nói cha má đã có niệm
Phật con mừng lắm, thư này con xác định thêm niềm tin thôi. Nhứt định cha má
phải tin Phật, phải biết gởi trọn vẹn huệ mạng mình cho Phật là hành động đúng
và trí huệ nhứt, không sai đâu. Niệm Phật và tiếp tục niệm Phật thì ngày thấy
Phật không xa. Tuổi cha má đã cao, sức đã yếu, ngoài pháp tu niệm Phật ra,
không tìm đâu ra pháp nào đơn giản dễ dàng tiện lợi và vi diệu hơn. Cụ
Triệu-Vinh-Phương, chín mươi tuổi mới khởi tu còn vãng sanh được huống chi là
cha má. Cụ Trần-Quang-Việt, tám mươi hai tuổi mới phát tâm niệm Phật, tám mươi
sáu tuổi vãng sanh trong đầu năm 2001. Tất cả những người thành tâm niệm Phật
không ai không thành Bồ-tát, thì cha má nhứt định không được chần chờ nữa
nghen.
Bồ-tát Phổ-Hiền dạy rằng, “Danh hiệu Nam-mô
A-di-đà Phật thành tựu vô lượng vô biên công đức như thế, cho nên phải nói rằng
danh hiệu chứa đựng vô lượng vô biên công đức của hết thảy Phật pháp, khai vô
lượng vô biên diệu dụng, hiển thị vô lượng vô biên uy lực, giải thị vô lượng vô
biên tri kiến giải thoát, siêu việt mọi tư duy ngôn từ. Tại sao thế? Vì nhân
nơi danh hiệu Phật mà xuất sanh và lưu bố tất cả Bồ-đề tâm, tất cả Bồ-đề
nguyện, tất cả Bồ-đề hạnh. Ba đời mười phương Như-Lai thảy đều từ danh hiệu
Phật mà phát sinh ra. Ba đời mười phương Phật thảy đều do danh hiệu Phật mà
thành đạo”, (Kinh Niệm-Phật Ba-La-Mật, phẩm 4). Cho nên, danh hiệu Nam-mô
A-di-đà Phật là toàn bộ Phật pháp của các đức Như-Lai, vô lượng vô biên công
năng, chứa tất cả mật tạng trong đó chứ không phải thường đâu cha má ạ.
Hòa-Thượng Tịnh-Không thường giảng rằng, chư
Phật cũng phải niệm Phật để thành Phật thì tại sao chúng ta lại không niệm
Phật, còn chọn lựa gì nữa đây? Tây-phương Cực-lạc là Pháp giới của Phật, là tối
thắng trong tất cả mười phương pháp giới mà chỉ cần một đời tu hành nhất tâm
niệm Phật là được phần vãng sanh mà còn chờ đợi gì nữa.
Cha má kính thương, trong đời này con gặp
cha má thì con phải tìm cách trả trọn chữ hiếu làm con. Nhiều lúc, vì để thức
tỉnh cha má con đành lấn sang những phần đáng lẽ không nên nói. Tuy nhiên con
tin cha má hiểu con, chư Phật cũng hiểu con và hộ trì cho con để con làm tròn
lời hứa cứu độ song thân.
Đến lá thư này là đủ kết thúc giai đoạn củng
cố niềm tin cho cha má. Tin thì cha má phải đi, có đi thì tự nhiên đến. Hồi giờ
mình cứ đi lòng vòng trong rừng gai hiểm hóc không biết hướng thoát thân. Niệm
Phật cầu sanh Tịnh-độ là đại lộ thênh thang lót bằng vàng để ta về với Phật.
Cha má cứ giữ vững lòng tin mà tiến bước thì quang minh của chư Phật đang chờ
phía trước.
A-di-đà Phật
Con kính thư
(Viết xong, Úc châu ngày 22/12/2001).