Khéo giữ gìn cái nghiệp của miệng đừng nghị
bàn lỗi của người khác, khéo giữ gìn cái nghiệp của thân đừng để mất luật nghi,
khéo giữ gìn cái nghiệp của ý để được thanh tịnh không ô nhiễm.(Lời Phật).
Cha má kính thương,
Tuổi già không có gì cần thiết hơn là cố
gắng tinh tấn tu hành để tìm phương giải thoát. Nhà cửa chắc đã khởi công, tiền
bạc chắc cũng đã tạm ổn. Nơi thờ phụng ông bà chắc cũng sẽ được khang trang.
Đây là cơ hội cho cha má yên tâm rũ sạch mọi sự bận bịu để lo niệm Phật tu
hành. Cha hãy giao cho anh chị em nào đó trông coi, chăm sóc việc nhà, chứ cha
má không nghe theo lời con, cứ lăng xăng vào mấy thứ vặt vãnh thì rốt cuộc
không làm được gì cả, mà cuộc đời của cha với má cũng không ai cứu nổi nữa đâu.
Trăm ngàn lần con tha thiết xin cha má hãy nghe lời con, mau mau phát tâm niệm
A-di-đà Phật, đừng chần chờ nữa. Ngày cha má ra đi, cha má không thể nào mang
theo cái nhà Từ-Đường gì đó đâu. Tiếng khen chê của hàng xóm không cứu được
mình ra khỏi địa ngục, không ai tới nhà lao chịu khổ giùm cho mình, chịu đau
giùm cho mình, chịu rên siết giùm cho mình đâu cha má ạ.
Nếu cha má không chịu tu hành, thì coi như
lòng hiếu thảo của con xưa nay đã tràn, đã đủ rồi! Bây giờ có cấp dưỡng cho cha
má ăn uống no say cũng chỉ tạo thêm nghiệp khổ cho cha má chứ không ích gì. Con
quyết chí, đường con vạch ra con sẽ đi. Lúc đó cha má khó có thể liên lạc được
với con nữa. Nếu cha má trách con bất hiếu con chấp nhận bất hiếu: Cái bất hiếu
của người con muốn cứu cha mẹ nhưng cha mẹ không chịu nghe theo, cứ muốn đua
nhau đi vào hầm lửa, thì con đành chịu thua. Ngày cha má bỏ xác thân hãy để cho
anh chị em khác khóc than, con không khóc. Con đã thấy trước rồi, đã hiểu được rồi.
Con đã thấy được một sự thật nên không những đã khóc cho người thân còn sống,
mà khóc luôn cho ông bà trong dòng họ mình rồi. Tình thực con khóc không còn ra
nước mắt nữa, mà chảy đến cả máu trong tim ra. Con vắt từng giọt máu đau buồn
đó ra mà khuyên Song-Thân tỉnh ngộ, mà không chịu nghe thì thôi, chứ bây giờ
còn bảo con khóc làm gì nữa? Con thấy rõ ràng tiếng khóc than đó không ích lợi
gì? Đâu có cứu vớt được ai?
Thưa cha má, trước giờ mình không biết, vì
bất tri bất giác mình tạo nghiệp đã quá nhiều thì cũng đành đi. Nay đã biết, đã
thấy, thì hãy quay đầu lại. Con ngày đêm nguyện cầu chư Phật gia trì cho cha
má, hằng mong cha má xa lìa nẻo trần tục để trở về bến giác. Chỉ thế thôi mà
con viết không biết bao nhiêu thư từ, nói không biết bao nhiêu lời tha thiết,
nhưng đến hôm nay thực sự con vẫn buồn không thể tả được, vì cha má chưa chú
trọng đến sự giải thoát. Cha má hãy tự hỏi đi, còn sống bao năm nữa để lo nhân
nghĩa, để lo tròn tiếng khen chê? Nếu cha má thấy có đủ sức lo tròn cho hết con
rồi tới cháu, hết cháu rồi tới chắt, hết ơn rồi tới nghĩa, hết danh rồi tới
vọng, hết từ đường rồi tới đống tro tàn... thì cha má cứ việc lo đi. Ôi, đây
cũng là căn phần phước đức của cha với má. Con không biết nói gì thêm, lời
khuyên của con dù sao cũng chỉ để nhắc nhở, lòng chân thành của con dù sao cũng
chỉ mở đầu, sự quyết tâm của con dù sao cũng giới hạn! Con không có một năng
lực nào để cứu cha má, chính cha má phải tự cứu lấy. Xin cha má suy nghĩ kỹ.
Trong giảng ký của Hòa-Thượng Tịnh-Không
(quyển 21->31) có đoạn Ngài nói như vầy:
"Bảy ngày trì danh nhất tâm bất
loạn" để lấy đó làm pháp môn tu. Pháp môn này là phương pháp tu hành Trì
Danh Niệm Phật. Cần bao lâu? Bảy ngày thì được rồi. Nhưng niệm bảy ngày, quí vị
niệm thử xem có vãng sanh hay không? (Thực ra nếu bảy ngày niệm vãng sanh, có
lẽ pháp môn này không có ai dám học, vì chỉ còn có bảy ngày nữa là chết rồi, ai
mà dám học pháp môn này?). Quí vị niệm bảy ngày sao vẫn chưa vãng sanh. Đừng
nói bảy ngày, niệm bảy năm cũng không vãng sanh. Nguyên nhân ở đâu? Thật ra
không phải pháp môn có vấn đề, mà là tâm của quý vị niệm Phật có vấn đề. Vấn đề
ở chỗ nào? Không muốn đi! Niệm, là tưởng mà niệm chứ không muốn đi.
Quý vị đọc đại kinh rất nhiều và đều biết
thế giới Tây-phương Phật A-di-đà, Quán-Âm, Thế-Chí, chư Thượng-Thiện-Nhân,
thiên nhãn của các Ngài rỗng suốt, thiên nhĩ nghe thấu cả, tha tâm thông biết
khắp, do đó các Ngài đã thấu suốt quý vị. Quý vị niệm bảy năm các Ngài cũng
không đến tiếp dẫn quý vị là vì sao? Vì quý vị miệng niệm mà tâm thì không! Quý
vị không thật sự muốn đi. Nếu thật sự muốn đi, thì lời này rất linh nghiệm, xác
thật trì danh bảy ngày nhất tâm bất loạn thì có thể vãng sanh. Từ xưa đến nay
trong những vị Đại đức vãng sanh chúng ta xác thật đã thấy qua. Gần đây nhất là
ở Washington DC, tiên sinh Châu-Quảng-Đại niệm ba ngày ba đêm vãng sanh, đó
không phải là giả. Ông ta vẫn chưa niệm đến bảy ngày, mới có ba ngày ba đêm mà
đức Phật A-di-đà đã đến tiếp dẫn ông vãng sanh.
Cho nên vấn đề là ở chúng ta tâm có thật hay
không. Nếu thật tâm thì phải thiết nguyện, đây là một nhân tố”.
Thưa cha má, trong đoạn này có nhắc đến một
người ở Mỹ niệm Phật chỉ ba ngày được vãng sanh về thế giới Tây-phương. Mở kinh
A-di-đà ra ấn chứng, đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói: “Này ông Xá-Lợi-Phất, nếu có
một người thiện nam, thiện nữ nào nghe ta thuyết về Phật A-di-đà, chấp trì niệm
danh hiệu, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm
ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm không loạn, thì người đó đến lúc
lâm chung, có Phật A-di-đà cùng các Thánh chúng hiện ra trước mặt. Người đó lúc
ra đi tâm không điên đảo, chắc chắn được vãng sanh về thế giới Cực-lạc của Phật
A-di-đà”. Đây là lời của chính kim khẩu của Phật Thích-ca Mâu-ni nói ra.
Ông Châu-Quảng-Đại đã được vãng sanh trong
điều kiện này. Trong thư nào trước con có nhắc đến một người ở Mỹ bị ung thư
đến chỗ không còn chữa được nữa, bác sĩ cho về nhà để chờ vài tháng sau chết.
Nhà ông ta rất giàu, họ tung tin khắp nơi tìm người cứu chữa và họ chịu trả
tiền rất hậu. Ông ta may mắn gặp người khuyên ông hãy bỏ xác thân này đi, thành
tâm niệm Phật cầu về Tây-phương có hơn không. Ông là người không hề biết gì về
đạo Phật, nhưng nghe hiểu lý, cùng gia đình quyết chí làm theo và nhờ người
niệm Phật đến hộ niệm. Ông quyết tâm một lòng về với Phật, niệm được hai ngày
ông thấy có người đến tiếp dẫn. Ông diễn tả hình dáng cho mọi người nghe, thì
ra đó là Địa-Tạng-Vương Bồ-tát. Mọi người bảo ông đừng đi, cứ việc tiếp tục
niệm A-di-đà Phật. Đến ngày thứ ba, Phật A-di-đà đến, ông xin cáo biệt mọi
người và an nhàn ra đi trong ánh quang minh của A-di-đà Phật. Trong giảng ký
quyển 21-31 này có nói tên là Châu-Quảng-Đại, còn người nói trong giảng ký khác
con vừa kể trên thì không nói tên. Nhưng có lẽ hai người này là một vì cùng ở
Hoa-Kỳ, Washington DC.
Thưa cha má, nếu kém phước đức thiện căn,
ông Đại cứ theo thói tục thường tình, bỏ bạc triệu đô-la ra mua thêm vài năm
sống, thì nay mạng ông cũng không còn, nhưng vài năm sống đó có sướng ích gì
đâu với căn bệnh ung thư tàn tệ! Với bịnh này nó hành đau nhức kinh khủng, có
người nhức đến nỗi phải chết giấc luôn. Đem tiền bạc triệu để mua lấy những
ngày tháng nhức nhối, khổ đau, xỉu lên xỉu xuống, rồi rốt cuộc đau nhức quá
chịu không nổi cũng phải chết trong đau đớn. Như vậy có khôn gì đâu! Còn mạnh
dạn hủy bỏ cái túi da rã mục này, an nhiên về với Phật, trở thành bậc Bồ-tát
bất-thối, an lạc tự tại, thần thông bao trùm cả vũ trụ, đây mới là đại thông
minh, trí tuệ chứ.
Ngài giảng tiếp: “Còn nhân tố thứ hai? Tức
là ở đây nói Nhất-tâm-bất-loạn, đây là một nhân tố quan trọng nhất. Vừa niệm
Phật vừa vọng tưởng thì không được, bảy ngày bảy đêm không thể vãng sanh. Quý
vị niệm một ngày một đêm cũng tốt, hai ngày hai đêm cũng tốt, trong một câu
Phật hiệu chắc chắn không thể xen tạp vọng tưởng thì mới gọi là nhất tâm hệ
niệm. Cho nên công phu niệm Phật cần phải không gián đoạn, không hoài nghi và
không xen tạp. Nếu vẫn có hoài nghi cũng có thể sanh đến biên địa, đó là trong
kinh nói. Nếu không hoài nghi, không gián đoạn nhưng còn xen tạp thì chắc chắn
không thể vãng sanh, biên địa cũng không có phần luôn. Các vị đồng tu pháp môn
niệm Phật nên biết điều này.
Do đó, sự xen tạp đối với niệm Phật có
thương hại rất lớn, không phải pháp môn không linh nghiệm mà là tự chúng ta đi
sai đường. Pháp môn tu hành này so với pháp môn khác đơn giản hơn nhiều, dễ
dàng thỏa đáng nhanh chóng.
Đến khi lâm chung liền được vãng sanh đến
bực bất thối. Khi lâm chung Phật đến tiếp dẫn người tu hành ắt biết đến giờ
mất. Quý vị thấy một vị đệ tử của pháp sư Đàm-Hư là cư sĩ Trịnh-Tích-Tân, ông
này người Sơn-Đông. Trước khi học Phật ông đã từng là một nhà kinh doanh. Sau
khi học Phật mấy năm ông không đi làm ăn nữa, ông đi học giảng kinh A-di-đà.
Đại khái giảng cũng hay. Đi đến đâu cũng giảng kinh A-di-đà và khuyên người
niệm Phật, không màng đến việc làm ăn. Anh em trong nhà không hiểu ông, cho
rằng ông học Phật thành mê, nên đã đối với ông không được tốt.
Có lần ông giảng kinh xong rồi, mọi người
đều ra về, chỉ còn một vài người bạn thân, ông nói với những người ấy rằng:
"Tôi muốn đi, các anh em có quen biết ở nơi này thì thuê dùm tôi một căn
nhà". Mấy người bạn này nghe lấy làm lạ: "Anh muốn đi thuê nhà để làm
gì?". Ông nói: "Không phải tôi đi đến nơi khác, tôi muốn vãng sanh
đến Tây-phương Thế-giới Cực-lạc đó mà, sợ chết ở trong nhà thì người ta sợ, họ
kỵ nên muốn thuê nhà". Những vị đồng tu nghe rồi nói: "Anh vãng sanh
thế giới Cực-lạc, tôi không kiêng kỵ gì cả, hãy đến nhà tôi đi. Đến nhà tôi thì
mọi người đều vui mừng đồng ý". Đó là biết trước ngày giờ vãng sanh.
Sau khi ông đến nhà người bạn, các vị đồng
tu nói với ông: "Anh vãng sanh là việc tốt". Người xưa vãng sanh
thường hay nói bài kệ hoặc làm mấy vần thơ cho chúng tôi làm kỷ niệm. Ông nói:
"Không cần đâu! Hãy trông tôi làm kỷ niệm là hay lắm rồi". Ông khuyên
mọi người niệm Phật giúp ông. Niệm chưa đầy một phút ông tréo hai chân ngồi
kiết già trên giường đi luôn! Sạch sẽ gọn gàng!
Ở nhà người cư sĩ đó sau này anh em trong
nhà thấy bạn của anh mình vãng sanh liền tin tưởng. Người em cũng một lòng niệm
Phật, hai năm sau người em trai cũng được vãng sanh. Câu chuyện này có thật
sự!”
Đoạn này kể chuyện ông Trịnh-Tích-Tân, vãng
sanh tự tại như người đi chợ. Ông muốn đi thì đi, muốn ở thì ở. Rõ ràng, vãng
sanh không phải là chết, mà còn sống nhưng họ không lưu luyến thế gian này nữa.
Họ muốn về với Phật sớm sướng hơn.
Thưa cha má, con thường nói con người chúng
ta không bao giờ chết. Ta chỉ bỏ lại cái xác thân này rồi tìm một chỗ nào đó
tiếp tục sống. Người khôn tìm chỗ tốt, người mê muội thì vào ngục tù vạn kiếp
để khóc than. Nếu hiểu được đạo thì mình thấy rõ ràng “Ta” không phải là cái
thân thể này đâu, mà cái thân thể giống như một vật ta lượm trong tứ đại về để
núp bóng mấy chục năm, sau cùng nó mục mình phải bỏ lại để tìm cái thân khác để
núp. Thế thôi! Như cái áo để mặc vài năm, cái nhà để nằm ngủ đôi khi lâu hơn
cái thân một chút, cái chiếc xe đạp để cỡi đi đây đi đó... mỗi vật có một sở
dụng của nó. Khi nó mất, mỗi cái cho ta cảm giác đau buồn riêng.
Như vậy cái thân còm cõi của cha má đang mang là cái cục thịt, xương, nước
tiểu, phẩn... mình sử dụng nó để núp trong thời gian này thôi. Nó mục thì mình
phải liệng, nếu tiếc không liệng thì nó rách te tua ra, nó mang đủ thứ bệnh
họan, nó hành cho đến khi mình phải liệng nó đi mới thôi. Nếu liễu ngộ được
điều này rồi, thì còn gì nữa mà không nhanh chóng niệm Phật, cầu về cho được
miền Cực-lạc, thưa cha má?
Trong đoạn giảng ký này, có nói tại sao có
người niệm Phật nhiều năm mà không được vãng sanh, còn có người thì muốn đi thì
đi, muốn ở thì ở, có người ba bữa đã về với Phật ngon lành. Cái lý do chính là
vì chưa hiểu thấu “Hai mươi chữ trên tượng Phật A-di-đà”. Ngài Tịnh-Không khi
ngộ đạo, Ngài tổng nạp Phật pháp thành hai câu này:
“Chân-Thành Thanh-Tịnh Bình-Đẳng Chánh-Giác Từ-Bi.
Khán-Pha Phóng-Ha Tự-Tại Tùy-Duyên Niệm Phật”.
Đại khái của vế thứ nhất là tu hành cần ở
lòng Chân-Thành, chí thành chí thiết, đừng nên tu vì tiếng khen chê, vì lòng
mến mộ, vì phước báu... Tu để quyết định con đường giải thoát, quyết lòng cầu
đạo. Lòng chân thành đó là đầu mối tất cả những thành quả phía sau.
Hễ Chân-Thành thì tâm được Thanh-Tịnh, an
lạc, mọi sầu khổ tự nhiên biến mất. Mình ở cái nhà tốt xấu cũng không lo. Ai
khen cũng tốt, ai chê cũng tốt. Con đường ta đi là về với Phật để hưởng tận mọi
cảnh vui sướng. Cha má cứ nghĩ vài năm nữa ta về với Phật, không thèm ở đây
nữa. Thế thì lo lắng, mưu đồ, danh vọng hão huyền, được vài người khen tặng để
làm gì? Tất cả những thứ đó nó có giúp được gì cho mình trong ngục tối không?
Tuổi về già là thời điểm dễ hiểu đạo nhứt, là cơ hội tốt giúp ta mạnh dạn buông
xả hết mọi trần lao, để có trạng thái An-Lạc, Thanh-Tịnh. Sướng-Khổ tại Tâm,
Thiên-đàng hay Địa-ngục cũng tại Tâm là như vậy.
Tâm có Thanh-Tịnh thì mới có Bình-Đẳng, thì
mới biết trọng người, mới bỏ thói khinh mạn tự cao. Có Bình-Đẳng mới thoát nạn
giai cấp quan-dân, giàu-nghèo, thượng-hạ. Được Bình-Đẳng thì mới Chánh-Giác,
nghĩa là cái thấy, cái biết, cái nghĩ, cái đối người tiếp vật mới đúng đắn, mới
nghiêm chỉnh. Cái tệ nạn chiến tranh xảy ra trên thế giới đều bắt nguồn từ cái
nhìn cái nghĩ thiên lệch, từ tà tri, tà kiến. Bảo thủ, cố chấp là đầu mối xảy
ra xung đột. Sự chém giết nhau không thương tiếc chỉ vì sự hiểu biết của con
người đã quá hạn hẹp, vì lòng thương đã khô cạn mà thôi. Cho nên có Bình-Đẳng,
Chánh-Giác mới có Từ-Bi. Lòng Từ-Bi giúp ta bớt hại đến sanh vật, biết sám hối
tội lỗi của mình, vì từ trước đến giờ ta đã vô tâm giết hại không biết bao
nhiêu mạng sống của chúng sanh một cách tội nghiệp.
Chân-Thành, Thanh-Tịnh, Bình-Đẳng,
Chánh-Giác, Từ- Bi là cái THỂ tu hành, là cái hướng để tiến, là ngọn đuốc soi
đường. Còn Khán-Phá, Phóng-Hạ, Tự-Tại, Tùy-Duyên, Niệm-Phật là cái DỤNG của sự
tu. Một bên là Thể một bên là Dụng. “Thể” là chủ đích, cứu cánh, mục tiêu.
“Dụng” là thực hành, phương pháp, cách thức tu hành, công phu huân tập. Thể và
Dụng của hai mươi chữ này đạo lý rất là cao, một dịp nào đó con xin trở lại.
Bây giờ thư đã dài, cho con xoáy vào trọng tâm của đoạn giảng ký trên và nói
những gì phù hợp với điều cha má đang bị lấn cấn hiện nay. Đó là bốn chữ:
KHÁN-PHÁ, PHÓNG-HA.
“Khán-Phá” là thấy rõ sự thật, hiểu thấu cái
kiếp nhân sinh, biết rốt ráo cái chân tướng của vũ trụ. “Phóng-Hạ” là buông
xuống, là bỏ đi, là không đèo bồng, không dính mắc, không luyến tiếc. Tất cả
phải biết buông xuống sạch trơn mới trở về với Phật được. Đó là tinh thần buông
xả, tối quan trọng để thành tựu đạo nghiệp trong đời này. Hai người vãng sanh ở
trên đều thuộc người buông xả trọn vẹn.
Ông Châu-Quảng-Đại, nhờ bệnh hoạn đã làm cho
ông ta tỉnh ngộ. Do thiện căn phước đức trong những đời trước của ông ta bất
chợt thành tựu, đã giúp ông chợt hiểu được chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Đó
là sự “Khán-Phá” vĩ đại đầy may mắn. Vì hiểu thấu được chân tướng sự thực, tất
cả chỉ là số không, cho nên ông quyết tâm buông bỏ tất cả, không cần cầu mong
một thứ gì ngoài việc tha thiết cầu nguyện về Tây-phương, đó là sự “Phóng-Hạ”.
Cái nghiệp ông mang lên từ hồi giờ đã tích tụ thành bệnh ung thư hành hạ thân
thể, bây giờ ông biết rồi, ông dứt khoát liệng nó xuống. Ông đã về với Phật dễ
dàng. Đây là cái đại phước báu quý vô giá, có người trải qua hàng vô số kiếp,
muốn đem bạc tỉ đô-la ra chưa chắc đã mua được.
Còn Ông Trịnh-Tích-Tân thì ngoài cái
“Khán-Phá”, “Phóng-Hạ” ra ông còn được thêm sự “Tự-Tại”, “Tùy-Duyên” và
“Niệm-Phật” nữa. Đó là người đã hoàn toàn buông bỏ sạch sành sanh, cho nên đã
đạt được trạng thái an nhiên tự tại. Còn duyên thì ở lại đi giảng kinh cứu
người, hết duyên thì về với Phật để hưởng an lạc, không giảng kinh nữa. Theo
như trong kinh Phật nói, thì ông Trịnh-Tích-Tân có thể được sanh đến Thượng
Phẩm ở cõi Tây-phương chứ không phải tầm thường. Nghĩa là, trong tích tắc Ngài
trở thành vị đại Bồ-tát bất-thối chuyển ở cõi Phật. Nếu tu bình thường, một
người muốn tới cõi Tây-phương phải trải qua hàng tỉ tỉ đời tu hành tinh tấn mới
mong được tới chỗ Hạ phẩm, còn Ngài đã đi tới Thượng Phẩm thành Phật như chuyện
cuốc đất, trồng rau!
Thấy vậy mới biết không thể nghĩ bàn được
cái uy đức vô cùng tận của tiếng Niệm A-di-đà Phật. Cách đây không lâu, cụ
Hạ-Liên-Cư, là một cư sĩ thôi, Ngài chuyên niệm A-di-đà Phật, sau khi kiết tập
hoàn chỉnh bộ kinh Vô-Lượng-Thọ xong, Ngài mời bạn bè tới nhà uống trà và tuyên
bố hôm nay tôi về với Phật. Nói xong, Ngài đứng chắp tay niệm Phật mà vãng
sanh. Con còn giữ tấm hình chụp Ngài khi còn sinh tiền, đôi giày vải dưới chân
phát ra hào quang, bức phong sau lưng hiện ra hình Phật. Đây là chuyện có thực,
con nói không thêm không bớt.
Thưa cha má, có người niệm Phật mà không về với Phật được là tại vì họ không
hiểu sự thật phũ phàng của thế giới Ta-bà này. Họ tu cho lấy lệ chứ không tin,
không thành tín, họ không muốn về thế giới Cực-lạc. Họ còn nghĩ muốn trở lại
làm người để hưởng phước hữu lậu, muốn làm giàu chứ không muốn đi. Chính vì vậy
mà họ không buông xả được. Tuổi già chờ từng ngày để chết mà họ còn lo cho cháu
con chưa thành danh, sợ người ta chê điều này, mất được khen điều nọ. Họ còn
ham cái tiếng tăm danh vọng hão huyền, lo mình chết sau này ai sẽ cúng giỗ, cái
vườn chưa cày, tiền chưa đòi hết, nợ chưa trả xong... những thứ tơ vò đó quyện
chặt lấy thân tâm thì làm sao thoát ly được. Tất cả những điều đó là những sợi
dây cáp bằng thép trói chặt mình lại trong sinh-tử luân-hồi. Nó dìm mình xuống
tận đáy vực thẳm thương đau, vạn vạn kiếp không trồi đầu lên nổi. Ở đó chỉ âm
thầm một thân một mình chịu đọa đày, không ai tới thăm viếng được. Đây là một
sự thật vô cùng kinh hãi, ghê sợ! Ngàn lần xin cha má chớ nên lơ là. Con đang
xin Thầy Ngộ-Thông cho dịch giảng ký của Hòa-Thượng Tịnh-Không về kinh Địa-Tạng
cho người Việt-Nam. Nghe được giảng ký này ai cũng phải thất đởm kinh hồn. Dù
kẻ ngỗ nghịch tới đâu cũng phải quay đầu lạy Phật, niệm Phật mà cầu sanh
Tịnh-độ. Cầu xin duyên lành đến sớm với người Việt Nam để cứu được người nào hay người
đó. (Thư chưa hết nhưng đã dài, xin tạm ngừng ở đây, thư sau con nói tiếp).
Phật pháp mênh mông, nhưng nắm được đầu mối
ta nhập vào đạo không khó. Hãy đọc hoài thư con thì tự nhiên hiểu. Mong cha má
mau mắn một lòng trung thành niệm A-di-đà Phật, để được về với Phật. Đừng tham
luyến cảnh “mộng huyễn bào ảnh” nữa. Cái thân này mình cũng sẽ liệng nó thôi.
Nhưng liệng rồi, mình phải về với Phật, đừng lạc vào nẻo khác mà thương đau vô
tận đó cha má ạ.
A-di-đà Phật
Con kính thư.
(Viết xong, Úc châu, ngày 5/6/2001).