Cõi: Abode.
Cõi A-Tu-La: A-tu-la
là
những sinh vật ngỗ nghịch ưa thích chiến
đấu. Tên của chúng có nghĩa là “Xấu tệ.” A-tu-la còn có nghĩa là “không
Thánh Thiện” vì mặc dù có vài loại A-tu-la cũng hưởng phước trời, nhưng
không có quyền lực nhà trời. Kỳ thật, A-tu-la là những người hâm mộ
Phật pháp và ưa cúng dường, nhưng tánh khí nóng nãy, hay ngạo báng nên
sanh ra trong đường nầy. Trong Tam Giới có bốn loại A-tu-la—Asuras
Realm—Titanic Demons—Asuras are unruly beings that love to fight. Their
name means “ugly.” It also means “ungodly” because, although some
Asuras enjoy heavenly blessings, nonetheless, they lack authority in
the heavens. In fact, Asuras are those who like to Dharmas and prefer
performing offerings; however, they are hot-tempered, perfer to
ridicule other people; thus born in this realm. There are four
categories of Asuras in the Three realms of Existence:
1) A-Tu-La Quỷ Đạo: Loại quỷ A-tu-la, sanh bằng trứng trong loài
quỷ, dùng sức mạnh của mình để hộ trì Chánh Pháp và nhờ thần lực chúng
có thể du hành vô ngại trong không gian—Asuras in the path of ghosts,
born from eggs and belong to the destiny of ghosts, who use their
strength to protect Dharma and can with spiritual penetrations travel
through space.
2) A-Tu-La Súc Sanh Đạo: Loại quỷ A-tu-la sanh trong đường súc
sanh—Asuras in the realm of Animals. They are Asuras who belong to the
destiny of animal.
3) A-Tu-La nhân Đạo: Loại quỷ A-tu-la sanh trong nhân đạo—Asuras in
the realm of humans. They are Asuras born from wombs and belong to the
destiny of humans.
4) Thần A-Tu-La Vương: Loại nầy do hóa sanh mà thành trong đường
Thiên đạo, chúng hổ trợ Phật pháp bằng sức thần thông và vô úy. Chúng
đấu tranh để đạt đến địa vị Phạm Chủ—Asuras in the realm of gods. They
are Asura Kings who come into being by transformation and belong to the
destiny of gods. They support Dharma with a penetrating power and
fearlessness. They struggle for position with the Brahma Lord.
Cõi Ác: Evil world
Cõi Ác Trược: Evil or defiled world.
Cõi Cực Lạc Bảy Báu Trang Nghiêm: The Western Pure Land is adorned
with seven treasures.
Cõi Dục Giới: The realm of desire—The Human realm.
Cõi Địa Ngục: Hells—Hell dwellers.
Cõi Đồng Cư Tịnh độ: The common residence Pure Land.
Cõi Đồng Cư Uế Độ: The common residence impure land.
Cõi Hoa Tạng Thế Giới: Hoa Tạng thế giới là toàn thể vũ trụ, được
diễn tả trong Kinh Hoa Nghiêm. Đây là cõi ngự trị của Phật Tỳ Lô Giá
Na, một hình ảnh siêu việt của Phật Thích Ca và chư Phật. Thế giới Ta
Bà, Tây phương Tịnh độ và tất cả các cõi nước khác đều ở trong cõi Hoa
Tạng nầy—The Flower-store world, the entire cosmos as described in the
Avatamsaka Sutra. It is the land of Vairocana Buddha, the
transcendental aspect of Buddha Sakyamuni and of all Buddhas. The saha
world, the Western Pure Land, and all other lands are realms within the
Flower-store world.
Cõi Nầy: See Cõi Trần.
Cõi Ngạ Quỷ: Trong cõi nầy chúng sanh thân thể hôi hám, xấu xa,
bụng to như cái trống, cổ nhỏ như cây kim, miệng luôn phực ra lửa,
không ăn uống gì được nên phải chịu đói khát trong muôn ngàn kiếp—In
the realm of hungry ghosts, beings have ugly and smelly bodies with
bellies as big as drums, while their throats are as small as needles
and flames always shoot out of their mouth, therefore, they cannot eat
or drink and are subject to hunger and thirst for incalculable eons.
Cõi Người: The human realm—See Dục Giới.
Cõi Nước Vô Ưu: The Land of No-Concerns.
Cõi Phàm Thánh Đồng Cư: The land of common residence of ordinary
beings and saints.
Phật Quốc Độ,佛國土, Buddha-land—See
Phật Độ
Cõi Phương Tiện Hữu Dư: The land of expediency.
Cõi Thật Báo Vô Chướng Ngại: The land of true reward.
Cõi Thường Tịch Quang: The land of eternally tranquil light.
Cõi Thường Tịch Quang Tịnh Độ: The realm of the “Ever-Silent
Illuminating Pure Land.”
Cõi Tiên: Fairyland.
Tịnh Thổ,淨土, Pure Abode—Pure Land
Cõi Tịnh Lưu Ly Của Đức Phật Dược Sư: The Pure Lapis Lazuli.
Cõi Trần: This world.
Thiên Thượng,天上, Heavenly
world—Celestial realms—Realms of heaven
Cõi Trời Còn Ngũ Tướng Suy Nghĩ Và Những Điều Bất Như Ý: The
heavenly realms are still marked by the five types of decay and the
things that go agaisnt our wishes.
Cõi Trời Đâu Suất: Tushita Heaven.
Cõi Trời Quảng Quả: Abundant Fruit Heaven.
Cõi Trời Sắc Giới: Tất cả chư thiên trong cõi trời sắc giới không
có khứu giác và vị giác; họ không ăn uống, ngủ nghỉ hay dục vọng. Tuy
nhiên, những ham muốn vẫn còn âm ỉ sâu kín bên trong, nên khi thọ mệnh
nơi cõi trời vừa dứt là họ phải trở về cảnh giới thấp tùy theo nghiệp
lực (chư thiên trong cảnh trời vô sắc cũng còn những dục vọng sâu kín
nầy)—The realms of form. All the gods in the form realm heavens are
without the senses of smell and taste; they do not eat food, sleep or
have sexual desire. However, the desires for these things are still
latent, and once their heavenly life comes to an end, they can return
to any lower realms of existence, in accordance with their karma (these
desires are also latent in the gods in the formless heavens).
Cõi Trời Tha Hóa: Cõi trời lục dục—The sixth heaven in the realm of
desire.
Cõi Trời Vô Sắc: Tất cả chư thiên trong cõi trời nầy không có thân
thể, chỉ còn “Thức” mà thôi—The realm of formlessness. All the gods in
this realm have no bodies, they only have consciousness.
Con Đường Trung Đạo: The Middle Path.
Cô Độc Địa Ngục,孤獨地獄, Solitary
hells—See Địa Ngục (C)
Video
Coi Am Coi Duong (Thich Nhat Tu)
Cô Độc Viên,孤獨園, Jetavana
(skt)—Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển của Giáo Sư Soothill,
đây là tịnh xá bảy từng cùng với công viên mà ngài Cấp Cô Độc đã mua từ
Thái Tử Kỳ Đà để hiến cho Phật. Đây là nơi an cư mà Đức Phật rất thích,
cũng là nơi mà nhiều bộ kinh đã được Phật thuyết giảng—According to
Eitel from The Dictionary of Chinese-English Buddhist Terms, this is
the seven-storey abode and park presented to Sakyamuni by
Anathapindaka, who bought it from the prince Jeta. It was a favourite
resort of the Buddha, and most of the sutras date from this spot.
Cô Sơn,孤山,
1) Ngọn núi nằm cheo leo một mình: An isolated hill.
2) Cô Sơn Tự và tên của một trong những vị Tăng trụ trì tại đây (Sư
Thích Trì Viên 975-1021, đệ tử của Phụng Tiên Nguyên Thanh, tự là Vô
Ngại Trung Dung Tử. Còn gọi là Thế Phu hay Bệnh Phu. Sư theo học yếu
chỉ của tông Thiên Thai Tam Quán với ngài Phụng Tiên Nguyên Thanh, tu
hành tại núi Cô Sơn ở Tây Hồ, soạn viết nhiều trước tác. Sư thị tịch
năm 1021. Sư đã từng soạn bộ sớ chú Kinh Lăng Nghiêm)—A monastery in
Kiang-Su and name of one of its monks.
Cô Tạng: Tên một quận phủ, nay thuộc Lương Châu, tỉnh Cam Túc, là
trung tâm lưu thông quan trọng sang Tây Tạng—Ku-Tsang—Formerly a city
in Liang-Chou, Kan-Su, and an important center for communication with
Tibet.
Cô Thi Thảo,姑尸草, Kusa (skt)—Cự
Xá—Một loại cỏ kiết tường—Grass of good omen for divination
Cô Tửu Giới,酤酒戒, Giới cấm bán
rượu—The commandment which is against the selling of alcoholic liquor.
Cố Nhị,故二, Purva-dvitiya
(skt)—Người vợ của một vị Tăng hồi chưa xuất gia—The former mate or
wife of a monk.
Cố Tác Nghiệp,故作業, See Cố Tư Nghiệp
Cố Tư Nghiệp,故思業, Còn gọi là Cố Tác
Nghiệp, Cố Tư Tạo Nghiệp, hay Cố Tác Nghiệp, là cái nghiệp thân và
miệng do cố ý tạo ra (nếu không cố ý tạo ra thì gọi là Bất Cố Tư
Nghiệp. Quả báo cảm thọ khổ lạc chỉ giới hạn ở Cố Tư Nghiệp mà
thôi)—The karma produced by former intention
Cố Ý Phương Hành Lập: Từ địa thứ ba đến địa thứ bảy trong Thập Địa
Bồ Tát—The third to the seventh of the ten Bodhisattva stages of
development—See Thập Địa Phật Thừa.
Cồ Đàm,瞿曇, Gotama
Cổ Thiên,鼓天, Trống trời hay tiếng
sét—The drum-deva, thunder
Côn Lôn,崑崙, Đảo Côn Lôn trong
biển Nam Hải—Condre island in the South China Sea
Côn Lôn Quốc: Được diễn tả như là tên nước của một nhóm người da
đen trên đảo Gia Va và Su Ma Tra (bây giờ thuộc Nam Dương)—A native of
those islands of black colour, and is described as Java, Sumatra, etc.
Côn Lôn Sơn,崑崙山, Núi Côn Luân hay
Hương Sơn, nằm về phía bắc núi Tuyết Sơn của Tây Tạng—The K’un-Lun
mountain range north of Tibet, the Gandhamadana
Côn Trùng Tác Phật,蜫蟲作佛, Theo Đại Trí Độ
Luận, ngay cả côn trùng cũng có thể làm Phật được—According to the
Maha-Prajna-Paramita Sastra, even insects may attain Buddhahood
Công Án,公案,koan
(I) Một đề tài cho các đệ tử suy nghĩ và quán chiếu trong thiền
quán trong các thiền đường phái Lâm Tế. Lúc đầu, công án là một “yết
thị công khai,” có nghĩa là “có trước về mặt công lý.” Về sau nầy công
án được nhà Thiền xử dụng một cách có hệ thống như những phương tiện
đào tạo từ khoảng giữa thế kỷ thứ mười bằng cách tránh tất cả những lời
giải thích duy lý. Công án cho phép đệ tử thấy rõ những giới hạn của
trí tuệ và buộc phải vượt lên những giới hạn ấy bằng trực giác chứ
không bằng duy lý, là thứ đưa anh ta vào một vũ trụ nằm bên ngoài mọi
mâu thuẫn và mọi tư tưởng nhị nguyên. Sự phát khởi nầy cho phép người
đệ tử trình bày với thầy một cách tự phát và không cần tới sự giúp đở
từ bên ngoài—Something to be pondered on during meditation by novices
in Zen monasteries of the Lin-Chi school—Problems set by Zen masters,
upon which thought is concentrated as a means to attain inner unity and
illumination. Originally, koan means “public notice,” means a legal
case constituting a precedent. Later, koans have been used in Zen as a
systematic means of training since around the middle of the tenth
century. Since the koan eludes solutions by means of discursive
understanding, it makes clear to the student the limitations of thought
and eventually forces him to transcend it in an intuitive leap (not by
speaking or discussion), which takes him into a world beyond logical
contradictions and dualistic modes of thought. On the basis of this
experience, the student can demonstrate his own solution of the koan to
the master in a spontaneous and without recourse to preconceived
notions.
(II) Công án được hình thành từ các cuộc vấn đáp giữa thầy trò ngày
xưa, từ những đoạn văn trong các bài thuyết pháp hay các bài giảng của
các vị thầy, hoặc từ những câu kinh và các lời dạy khác—Koans are
constructed from the questions of disciples together with responses
from their masters, from portions of the masters’ sermons or
discourses, from lines of the sutras, and from other teachings. What
are they?
1) Một trường hợp thiết lập một tiền lệ hợp pháp: A case which
established a legal precedent.
2) Sự thể hiện của Pháp, đó là hiện thực của vũ trụ: The concrete
manifestation of Dharma, that is reality or the Universe itself.
3) Một câu chuyện thể hiện những nguyên tắc căn bản của Phật Pháp:
A story which manifests the universal principles of the Buddha-Dharma.
4) Trong nhà Thiền công án là một định thức, bằng ngôn ngữ đánh
lừa, chỉ thẳng chân lý tối hậu. Công án không thể được giải đáp bằng
cách sử dụng lý luận hợp lý, mà chỉ bằng cách làm tâm giác ngộ đến một
mức sâu hơn, cũng như vượt qua lý trí biện biệt—In Zen a koan is a
formulation, in baffling language, pointing to the ultimate truth.
Koans cannot be solved by recourse to logical reasoning, but only by
awakening a deeper level of the mind beyond the discursive intellect.
(III) Số lượng công án—Numbers of koans: Người ta nói toàn bộ có
khoảng chừng 1.700 công án. Trong số nầy có 500 công án chính yếu, vì
có nhiều công án trùng lập nhau, cũng như có những công án có giá trị
thấp cho việc thực hành. Các vị sư đều có những sở thích riêng về công
án, nhưng thường thường họ dùng Vô Môn Quan và Bích Nham Lục là hai
biên tập công án chính—It is said that altogether there are about 1,700
koans. Of these, about 500 are usually used, since many are repetitive
and others are less valuable for practice. Masters have their own for
references, but they prefer to use the Wu-Mên-Kuan and Pi-Yen-Lu.
Công Án Niệm Phật: Koan of Buddha recitation—Công án niệm Phật được
dùng khi chúng ta coi niệm Phật A Di Đà như là một công án. Ngay trong
phút giây hồng danh Phật được niệm ra, nó là điểm tập trung then chốt
mà mọi nghi hoặc ảo tưởng phải được để qua một bên. Đồng thời tự hỏi
coi ai là người đang niệm Phật? Khi dựa vào công án, mọi mê mờ vọng
tưởng đều bị bức vỡ giống như những gút chỉ bị cắt đứt. Khi mà không
còn gì nữa để cho những thứ nầy tái xuất hiện, cũng là lúc ánh nhật
quang phổ chiếu khắp trời. Khi ảo tưởng không khởi và mê mờ biến mất,
lúc đó tâm ta tĩnh lặng và trong suốt—The koan of Buddha Recitation
uses the invocation of Amitabha Buddha as a koan. At the very moment
the name is uttered, it must be the focal point in respect to which all
doubts and delusions are laid aside. At the same time you ask “Who is
this person reciting the Amitabha’s name?” When you rely steadily on
the koan, all illusions and confused thoughts will be broken down the
way knotted threads are cut. When there is no longer any place for them
to reappear, it is like the shinning sun in the sky. When illusion does
not arise and delusions disappear, the mind is all calm and
transparent.
Công Án Thoại Đầu: Từ ngữ trong đó công án tự hóa giải, thí dụ như
khi đệ tử hỏi Ngài Triệu Châu, “Con chó có Phật tánh không?” Triệu Châu
đáp: “Không!” Nguyên câu hỏi là một công án và chữ “Không” chính là
thoại đầu—The word or phrase into which the koan resolves itself, i.e.
when a disciple asked: “Has a dog the Buddha-nature?” Together with
Chao-Chou’s answer, “No!” constitutes the koan and the phrase.
Công Đức,功德,merit and virtue
(I) Nghĩa của “Công Đức”—The meanings of “Merit and Virtue: Sức
mạnh làm những việc công đức, giúp vượt qua bờ sanh tử và đạt đến quả
vị Phật. Phước đức được thành lập bằng cách giúp đở người khác, trong
khi công đức nhờ vào tu tập để tự cải thiện mình và làm giảm thiểu
những ham muốn, giận hờn, si mê. Cả phước đức và công đức phải được tu
tập song hành. Hai từ nầy thỉnh thoảng được dùng lẫn lộn. Tuy nhiên, sự
khác biệt chính yếu là phước đức mang lại hạnh phúc, giàu sang, thông
thái, vân vân của bậc trời người, vì thế chúng có tính cách tạm thời và
vẫn còn bị luân hồi sanh tử. Công đức, ngược lại giúp vượt thoát khỏi
luân hồi sanh tử và dẫn đến quả vị Phật. Cùng một hành động bố thí với
tâm niệm đạt được quả báo trần tục thì mình sẽ được phước đức; tuy
nhiên, nếu mình bố thí với quyết tâm giảm thiểu tham lam bỏn xẻn, mình
sẽ được công đức—Virtue achieved—Power to do meritorious
works—Meritorious virtue—Virtue (which will help transcend birth and
death and lead to Buddhahood)—Merit and virtue—Merit is what one
established by benefitting others, while virtue is what one practices
to improve oneself such as decreasing greed, anger, and ignorance. Both
merit and virtue should be cultivated side by side—These two terms are
sometimes used interchangeably. However, there is a crucial difference.
Merits are the blessings (wealth, intelligence, etc) of the human and
celestial realms; therefore, they are temporary and subject to birth
and death. Virtue, on the other hand, transcend birth and death and
lead to Buddhahood. The same action of giving charity with the mind to
obtain mundane rewards, you will get merit; however, if you give
charity with the mind to decrease greed and stingy, you will obtain
virtue.
(II) Công Đức theo quan niệm của Tổ Bồ Đề Đạt Ma—“Merit and Virtue”
according to Bodhidharma Patriarch’s point of view: Vua Lương Võ Đế, Võ
Đế hỏi Bồ Đề Đạt Ma rằng: “Trẩm một đời cất chùa độ Tăng, bố thí thiết
trai có những công đức gì?” Tổ Đạt Ma bảo: “Thật không có công đức.” Đệ
tử chưa thấu được lẽ nầy, cúi mong Hòa Thượng từ bi giảng giải—King
Liang-Wu-Ti asked Bodhidharma: “All my life I have built temples, given
sanction to the Sangha, practiced giving, and arranged vegetarian
feasts. What merit and virtue have I gained?” Bodhidharma said, “There
was actually no merit and virtue.”
(III) Công Đức theo sự giải thích của Lục Tổ Huệ Năng trong Kinh
Pháp Bảo Đàn—The Sixth Patriarch Hui-Neng interpreted about “Merit and
Virtue” in the Dharma Jewel Platform Sutra: Tổ nhấn mạnh những việc làm
của vua Lương Võ Đế thật không có công đức chi cả. Võ Đế tâm tà, không
biết chánh pháp, cất chùa độ Tăng, bố thí thiết trai, đó gọi là cầu
phước, chớ không thể đem phước đổi làm công đức được. Công đức là ở
trong pháp thân, không phải do tu phước mà được.” Tổ lại nói: “Thấy
tánh ấy là công, bình đẳng ấy là đức. Mỗi niệm không ngưng trệ, thường
thấy bản tánh, chân thật diệu dụng, gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ
ấy là công, bên ngoài hành lễ phép ấy là đức. Tự tánh dựng lập muôn
pháp là công, tâm thể lìa niệm ấy là đức. Không lìa tự tánh ấy là công,
ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu tìm công đức pháp thân, chỉ y nơi đây
mà tạo, ấy là chơn công đức. Nếu người tu công đức, tâm tức không có
khinh, mà thường hành khắp kỉnh. Tâm thường khinh người, ngô ngã không
dứt tức là không công, tự tánh hư vọng không thật tức tự không có đức,
vì ngô ngã tự đại thường khinh tất cả. Này thiện tri thức, mỗi niệm
không có gián đoạn ấy là công, tâm hành ngay thẳng ấy là đức; tự tu
tánh, ấy là công, tự tu thân ấy là đức. Này thiện tri thức, công đức
phải là nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà cầu
được. Ấy là phước đức cùng với công đức khác nhau. Võ Đế không biết
chân lý, không phải Tổ Sư ta có lỗi—The Patriarch emphasized that all
acts from king Liang-Wu-Ti actually had no merit and virtue. Emperor Wu
of Liang’s mind was wrong; he did not know the right Dharma. Building
temples and giving sanction to the Sangha, practicing giving and
arranging vegetarian feasts is called ‘seeking blessings.’ Do not
mistake blessings for merit and virtue. Merit and virtue are in the
Dharma body, not in the cultivation of blessings.” The Master further
said, “Seeing your own nature is merit, and equanimity is virtue. To be
unobstructed in every thought, constantly seeing the true, real,
wonderful function of your original nature is called merit and virtue.
Inner humility is merit and the outer practice of reverence is virtue.
Your self-nature establishing the ten thousand dharmas is merit and the
mind-substance separate from thought is virtue. Not being separate from
the self-nature is merit, and the correct use of the undefiled
self-nature is virtue. If you seek the merit and virtue of the Dharma
body, simply act according to these principles, for this is true merit
and virtue. Those who cultivate merit in their thoughts, do not slight
others but always respect them. Those who slight others and do not cut
off the ‘me and mine’ are without merit. The vain and unreal
self-nature is without virtue, because of the ‘me and mine,’ because of
the greatness of the ‘self,’ and because of the constant slighting of
others. Good Knowing Advisors, continuity of thought is merit; the mind
practicing equality and directness is virtue. Self-cultivation of one’s
nature is merit and self-cultivation of the body is virtue. Good
Knowing Advisors, merit and virtue should be seen within one’s own
nature, not sought through giving and making offerings. That is the
difference between blessings and merit and virtue. Emperor Wu did not
know the true principle. Our Patriarch was not in error.”
Công Đức Bát Nhã Ba La Mật: Virtue of the prajna paramita—Những vị
“Nhập lưu,” “Nhất lai,” “Bất lai,” “Ứng cúng,” vân vân, thường đạt được
Công đức Bát nhã Ba la mật bằng tu tập Thập thiện, Tứ thiền, Tứ vô sắc
định, và ngũ thần thông—Those who are “Stream-winner,” “Once-return,”
“Never-return,” and “Arhat,” and so on, always attain realization of
the virtue of the prajna paramita by practicing the ten cirtuous paths
of actions, the four states of meditation, the four immaterial states,
and the five mystical powers.
Công Đức Du,功德遊, Công đức mà người
tu đạt được trong lúc vừa đi vừa niệm, sau khi làm xong nhiệm
vụ—Meritorious exercise, i.e. walking about intoning after duty.
Công Đức Điền,功德田, Ruộng phước công
đức, như Tam Bảo, một trong ba ruộng phước—The field of merit and
virtue, i.e. the Triratna, to be cultivated by the faithful; it is one
of the three fields for cultivating welfare.
Công Đức Sứ Giả:
1) Đặc sứ giám sát công đức: Envoy to the virtuous or officer
supervising virtue.
2) Vị Giám Tăng được triều đình nhà Đường bổ nhiệm để kiểm soát
Tăng Ni: Controller of monks and nuns appointed by the T’ang Court.
Công Đức Thiên,功德天, See Đại Cát Tường
Thiên
Công Đức Thiên Nữ,功德天女, Cát Tường thiên
nữ—Laksmi—Goddess of fortune
Công Đức Thủy,功德水, Công đức trì hay
tám hồ công đức nơi cõi Cực Lạc—The water or eight lakes of meritorious
deeds, or virtue in Paradise
Công Đức Trang
Nghiêm,功德莊嚴,
Meritoriously adorned
Công Đức Trang Nghiêm Kinh: Tên tắt của kinh Nhất Thiết Pháp Công
Đức Trang Nghiêm Vương—Meritorious Adornment Sutra.
Công Đức Tu Hành: Virtues achieved as a result of cultivation.
Công Đức Tụ,功德聚,
1) Hội tụ công đức của Phật: The assembly of all merit and virtue,
i.e. the Buddha.
2) Tháp Phật cũng là một biểu hiệu Công Đức Tụ của Ngài: A stupa is
also considered as a symbol of the Buddha’s assembly of all merit and
virtue.
Công Đức Tùng Lâm,功德叢林, Thiền viện hay
tự viện hay thiền pháp—The grove of merit and virtue—Buddhist hall or
monastery, or the scriptures
Công Đức Xuất Thế: Virtue of liberation—Chỉ những người đã đạt tới
Thánh quả A-la-hán hay cao hơn mới có được công đức nầy—Công đức xuất
thế gian vừa giúp tự thân vừa giúp tha nhân cùng tiến tu—Possessed only
by those already attained Arhats or higher—Such virtue enables
cultivators to help themselves and help others.
Công Đức Y,功德衣, Kathina (skt)—Ca
Hi Na—Công đức y hay áo cà sa của chư Tăng sau 90 ngày an cư kiết hạ;
biểu tượng cho công đức mà chư Tăng đã đạt được trong mùa an cư—The
garment of merits, given to monks after their summer retreat of ninety
days; it symbolized five merits to which they had attained
Công Gia Cát Lạt Tư: Tên chữ Hán là Phổ Hỷ Danh Văn, còn gọi là Đảm
Ba (Vi Diệu), một Tăng sĩ Tây Tạng nổi tiếng vào thế kỷ 13, là người có
nhiều ảnh hưởng với triều đình Mông Cổ dưới triều
Kublai-Khan—Kundgahgrags, also named Danupa, a famous Tibetan monk of
the thirteenth century, who had influence at the Mongol court under
Kublai Khan.
Công Minh Luận: Silpasthana-Vidya-sastra—Luận về nghệ thuật và khoa
học, một trong năm tác phẩm về kiến thức (nghệ thuật, cơ khí, nhị
nguyên lý luận, và tính toán tháng năm)—The sastra of arts and
sciences—One of the five works on knowledge (Arts, Mechanics, Dual
philosophy, Calendaric calculation).
Công Môn: See Công Đường.
Công Xảo Luận,功巧論, See Công Xảo Minh
and Ngũ Minh
Công Xảo Minh,工巧明, Silpasthana-vidya
(skt)—Một trong Ngũ Minh, còn gọi là Công Nghiệp Minh, liên quan đến
nghệ thuật và toán pháp. Theo Giáo Sư Triệu Chân Giác trong Ngũ Minh,
thời trước chữ “Công Xảo Minh” được dùng để chỉ các môn nghệ thuật và
toán học, nhưng ngày nay nó bao gồm tất cả các ngành kỹ thuật học và
các khoa học cơ khí. Kiến thức về nông nghiệp và thủy lợi để trồng mễ
cốc làm thực phẩm, trồng bông gòn để dệt vải, thiết lập các thành phố
và nhà cửa để cư ngụ, chế tạo xe cộ để chuyên chở; tất cả những thứ nầy
đều cần thiết trong đời sống của chúng ta, và chúng đều được xếp vào
công xảo minh. Chữ nầy cũng còn bao gồm cả những kiến thức về thiên văn
và địa lý để con người có thể tiên đoán những thay đổi của thời tiết,
là thứ có thể ảnh hưởng tới sự sản xuất thực phẩm. Nó cũng bao gồm môn
toán học để tính toán số lượng của những vật liệu dùng vào việc thiết
lập các thành phố và nhà cửa. Những công việc xây cất và những cấu trúc
nầy là những nhu cầu căn bản quan trọng đối với đời sống của nhân
loại—One of the five departments of knowledge dealing with the arts anf
mathematics. According to Prof. T.C. Tsao in The Five Kinds of
Learning, formerly, the term “Learning of Technology” referred to “arts
and mathematics;” however, nowadays it includes all technologies and
engineering sciences. Knowledge of agriculture and irrigation to grow
crops of rice and vegetables for food, and cotton for clothing, cities
and housing for habitation, automobiles and tires for transportation,
all of which are necessities of our life, come under the heading of
“Learning of Technology.” The term even includes some knowledge of
astronomy and geography so that man can predict weather changes which
might affect food production. It also includes the learning of
mathematics for calculating quantities of material to be used for
constructing city walls and buildings. These constructions and
structures are important as basic necessities to the livelihood of the
masses
Cộng Báo,共報, Loại quả báo mà tự
tha chung trong một quốc độ hay cộng đồng đều có thể thọ dụng. Đây là
sự cảm ứng của cộng nghiệp—Collective retribution—Reward or punishment
of the community or in common, for the deeds of the community or even
of the individual in their effects on the community
Cộng Bát Nhã,共般若,
1) Những pháp chung cho Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát—The things
for Sravakas, pratyeka-buddhas and Bodhisattvas.
2) Sự giải thích Bát Nhã chung cho người sơ cơ cũng như các bậc
thượng thừa, đối lại với thâm nghĩa chỉ dành cho các bậc Bồ Tát Đại
Thừa—The interpretation of the Prajnaparamita (Thông Giáo) that
advanced and ordinary students have in common, as contrasted with its
deeper meaning (Biệt Giáo), only understood by the Mahayana
Bodhisattvas.
Cộng Bất Định,共不定, Sadharana
(skt)—Một trong sáu điều bất định trong Lý Luận (Lục Bất Định), tức là
sai lầm về pháp có quan hệ toàn phần. Nói rằng “thanh” là không trường
cửu, vì thanh là một sản phẩm; rằng “thanh” là thường hằng vì thanh
đồng phẩm với hư không. Thanh vừa thường lại vừa vô thường tạo nên “bất
định.”—Both indetermined, i.e. one of the six indeterminates in Logic,
when a thesis and its contradiction are both supported by equally valid
reasons, “that sound is not eternal, because it is a product, that it
is eternal, because it is audible.
Cộng Công Đức: Cộng Pháp—Đối lại với Bất Cộng Pháp. Các công đức
sẳn có của Đức Phật, có những công đức mà các bậc Thánh giả và các loại
chúng sanh khác cũng có—The totality of truth or virtue, common to all
sages, is found in the Buddha.
Cộng Mệnh Điểu: Jivajiva or Jivanjiva (skt)—Mệnh Mệnh Điểu—Sinh
Sinh Điểu—Loài chim một thân hai đầu, ví như tâm thức khác nhau nhưng
nghiệp báo lại giống nhau—A bird said to have two heads on one body,
i.e. mind and perception differing, but the karma for both is just one.
Cộng Thập Địa,共十地, Mười “địa” chung
cho cả ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát—The ten stages which
sravakas, pratyeka-buddhas, and bodhisattvas have in common—See Thập
Địa Bồ Tát (Tam Thừa)
Cộng Thêm: To add.
Cộng Tông,共宗, Điều mà mọi tông
phái Phật Giáo đều giống nhau hay đều có—That which all Buddhist
schools have in common
Cộng Tướng,共相, Samanyalakshana
(skt)
· Tính phổ quát hay những tướng trạng chung cho tất cả các sự vật
hữu vi, như vô thường, khổ, không, và vô ngã, vân vân: Marks that are
common to all things conditioned, such as impermanence, suffering,
emptiness, and egolessness, etc.
· Tướng chung hay tổng thể, đối lại với tự
tướng—Totality—Generality—The whole—In common, as contrasted with
individuality, or component parts.
Cộng Tướng Hoặc,共相惑, Cộng Hoặc—Đối lại
với Tự Tướng Hoặc. Phiền não khởi lên từ cách nhìn sự vật như một tổng
thể mà không xét đến quan hệ từng phần (cái nầy có mới có có cái
kia)—Delusion arising from observing things as a whole, or apart from
their relationships
Cốt Lõi Kinh Kim Cang: Bất ưng trụ sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp
sanh tâm; ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm—Do not attach to forms, sounds,
scents, tastes, textures, and mental objects or dharma to develop your
thoughts; It is said that the emptiness is the wonderful place that
mind will be arisen.
Cốt Lõi Của Phật Pháp: Giáo pháp cốt tủy của Đạo Phật—The core
(essence) of the Teaching of Buddhas:
1) Chư ác mạc tác: Không làm các việc ác—Not to do any evil.
2) Chúng thiện phụng hành: Siêng làm các hạnh lành—To cultivate
good.
3) Tự tịnh kỳ ý: Giữ cho tâm ý thanh sạch—To purify one’s mind.
4) Thị chư Phật Giáo: Ấy lời chư Phật dạy—This is the Teaching of
the Buddhas.
Cốt Mục,骨目, Xương và mắt, ý nói
những điều cốt yếu quan trọng nhứt—The bones and eyes (the essentials)
Cốt Nhân,骨人, Bộ xương (tọa thiền
quán sát về bộ xương khô để trừ bỏ tham dục)—A skeleton—To contemplate
a skeleton to eliminate passions
Cốt Phật,骨佛,
1) Phật bằng xương: A bone-Buddha.
2) Có Phật tính: To have the Buddha-nature.
Cốt Tháp,骨塔, Tháp chứa cốt—A
pagoda for the ashes of the dead
Cốt Thân,骨身, Xá lợi hay những gì
còn lại sau khi hỏa thiêu—The bones of the body, the sarira or remain
after cremation
Cốt Tỏa Thiên,骨鏁天, Sankara
(skt)—Thương Yết La—Cốt Tỏa Thiên là hóa thân của Tự Tại Thiên—The
bone-chain deva
Cơ Cảm: Chúng sanh có cơ căn thiện mà cảm ứng với Phật hay vì chúng
sanh có những hành động thiện lành nên được Phật cảm ứng—Potentiality
and response—The potentiality of all to respond to the Buddha—The
response of the Buddha to the good in all the living.
Ky Căn,機根,
1) Bản tính hay căn tính của chúng sanh—Natural or fundamental
quality—Original endowment and nature.
2) Khả Năng Thích Ứng: Suitability—Capacity.
Cơ Cẩn Tai: Nạn đói (theo thuyết nhà Phật đây là một trong ba tai
nạn nhỏ hay tiểu tam tai, xãy ra dưới thời trung kiếp, hai nạn kia là
nạn binh đao và nạn bệnh dịch)—The calamity of famine.
Ky Duyên,機緣,
1) Căn Cơ và Nhân Duyên: Potentiality and conditions.
2) Do hành động thiện lành hay cơ vi thiện mà có nhân duyên thụ
nhận được Phật pháp: Favourable circumstances or opportunities.
Cơ Đốc: Christianity.
Cơ Giáo:
1) Căn cơ của chúng sanh và giáo lý của Đức Phật: Potentiality and
the Buddha’s teaching.
2) Tùy căn cơ của chúng sanh mà dạy bảo khác nhau: Opportune
teaching suited to the occasion.
Cơ Hội Nguyên Nhân: Occasional cause.
Cơ Hội Quý Báu: Precious opportunity—Chúng sanh con người có cơ hội
quý báu thực hành Phật pháp, hầu chấm dứt những ý tưởng tiêu cực từ đó
khởi lên quả khổ—Human beings have the precious opportunity to practice
Dharma to stop negative thoughts from arising and to prevent resultant
suffering.
Ky Kiến,機見,
1) Cái thấy theo căn cơ của từng chúng sanh: Vision according to
natural capacity.
2) Tùy theo căn tánh mà thấy Phật: Seeing the Buddha according to
natural endowment.
Cơ Ngạ Địa Ngục,饑餓地獄, Địa ngục đói,
một trong 16 địa ngục—The hell of hunger, one of the sixteen hells—See
Địa Ngục
Ky Nghi,機宜, Opportune and
suitable—Natural qualification for receiving the truth
Ky Ngữ,機語, Tùy theo cơ duyên mà
thuyết pháp—Opportune words—Fundamental words
Ky Quan,機關, Sức khuyến
tấn—Motive force—Cause—Opportunity
Ky Tánh,機性, See Cơ Căn
Cơ Ứng: Potentiality and response—See Cơ Cảm.